Vai trò của hormone ADH
Hormone ADH là một hormone polypeptid của thùy sau tuyến yên, có tác dụng trực tiếp chống lợi tiểu, nên được gọi là hormon chống bài niệu (ADH). Hormone ADH được sản xuất ở vùng dưới đồi và được dự trữ ở thuỳ sau tuyến yên, điều khiển lượng nước được tái hấp thu ở gan.
1. Chức năng của hormone ADH
Hormone ADH hay hormone chống bài niệu được sản xuất ở vùng dưới đồi và được dự trữ ở thuỳ sau tuyến yên. Hormone ADH điều khiển lượng nước được tái hấp thu ở gan.
Khi tiêm một lượng rất nhỏ (2 millimicrogram ) hormone ADH đã có tác dụng chống bài tiết nước tiểu ở thận. Nếu không có mặt hormone ADH các ống thận hầu như mất tính thấm đối với nước dẫn đến giảm đột ngột khả năng tái hấp thu nước của các ống thận làm cho lượng nước tiểu tăng đột ngột. Khi có mặt hormone ADH, tính thấm của các ống thận tăng làm cho nước được tái hấp thu trở lại và lượng nước trong cơ thể tăng.

Cơ chế tác dụng của hormone chống bài niệu có thể được hiểu như sau: Hormone ADH kết hợp với các receptor tại các tế bào biểu mô ống thận kích thích các tế bào tổng hợp một lượng lớn cAMP. Các cAMP tác động lên lớp màng tế bào phía lòng ống thận làm mở các khe tạo điều kiện cho nước có thể đi vào tế bào từ trong lòng ống. Tuy nhiên cơ chế tác dụng của cAMP làm mở các khe trên màng tế bào vẫn chưa được biết rõ.
Vai trò sinh lý chủ yếu của hormone ADH là duy trì độ thẩm thấu của huyết thanh trong phạm vi bình thường. Hormone ADH làm cho nước tiểu cô đặc tương đối bằng cách tăng tái hấp thu nước ở ống thận.
Tại ống thận, hormone ADH kích thích hoạt tính của adenylcyclase, dẫn đến tăng adenosin monophosphat (AMP) vòng. AMP vòng làm tăng tính thấm nước ở bề mặt lòng ống lượn xa và ống góp, kết quả là tăng độ thẩm thấu của nước tiểu và giảm lưu lượng nước tiểu. Tác dụng chống bài niệu của vasopressin có thể giữ lại tới 90% lượng nước lẽ ra được bài xuất qua nước tiểu.
Hormone ADH cũng làm co các mạch máu ngoại vi và gây co cơ trơn của ruột, túi mật và bàng quang. Do đó thuốc có tác dụng cầm máu và kích thích nhu động ruột.
Hormone ADH làm tăng sản xuất ACTH ở tuyến yên, ACTH lại kích thích tuyến thượng thận tăng sản xuất cortisol, nên hormone chống bài niệu còn được dùng trong thử nghiệm gây sản xuất cortisol ở thượng thận.
Nhiều tình trạng, rối loạn và một số thuốc có thể ảnh hưởng đến cả số lượng hormone ADH được bài tiết hoặc đến cả đáp ứng của thận với ADH. Sự thiếu và dư thừa hormone ADH có thể gây ra các triệu chứng cấp tính và mãn tính, đôi khi có thể đe dọa tính mạng bệnh nhân.
Nếu có quá ít hormone ADH hoặc thận không đáp ứng với ADH thì quá nhiều nước sẽ bị mất qua thận, nước tiểu sẽ loãng hơn bình thường và máu trở nên bị cô đặc hơn. Điều này có thể gây nên sự khát quá nhiều, đi tiểu thường xuyên, mất nước và - nếu không được bù đủ nước thì natri trong máu sẽ tăng.
Nếu có quá nhiều hormone ADH thì nước sẽ được giữ lại, khối lượng máu tăng lên và bệnh nhân có thể sẽ buồn nôn, đau đầu, mất phương hướng, thờ ơ và natri trong máu sẽ bị giảm.
Xem thêm: Tìm hiểu các cách điều trị bàng quang tăng hoạt hiệu quả
2. Xét nghiệm hormone chống bài niệu
Xét nghiệm hormon chống bài niệu (ADH) được dùng để chẩn đoán và xác định nguyên nhân gây ra sự thiếu hụt hay dư thừa hormone chống bài niệu. Tuy nhiên xét nghiệm này thường không phổ biến. Để chẩn đoán những tình trạng này bác sĩ thường dựa vào các triệu chứng lâm sàng và các xét nghiệm khác như độ thẩm thấu máu và thẩm thấu nước tiểu, xét nghiệm điện giải đồ.
a. ADH điều khiển lượng nước được tái hấp thu ở gan
ADH hay vasopressin, được sản xuất ở vùng dưới đồi và được dự trữ ở thuỳ sau tuyến yên. ADH điều khiển lượng nước được tái hấp thu ở gan. Áp suất thẩm thấu của huyết thanh cao hay giảm lượng máu trong lòng mạch sẽ kích thích giải phóng ADH. Stress, phẫu thuật hay lo lắng quá mức cũng có thể kích thích giải phóng ADH.

Càng nhiều ADH được giải phóng, nước tái hấp thụ ở thận càng nhiều. Nước sẽ tái hấp thụ quá nhiều vào dòng máu và khiến nước tiểu đặc lại. Khi ADH giảm, cơ thể sẽ thải nước ra, gây ra cô đặc máu và làm loãng nước tiểu.
b. Đái tháo nhạt
Đái tháo nhạt xảy ra khi cơ thể không tiết đủ ADH hay thận không đám ứng kích thích của ADH. Lượng ADH tiết ra không đủ thường do các bất thường với hệ thần kinh trung ương (đái tháo nhạt do thần kinh), gây ra bởi chấn thương, khối u, viêm não (viêm vùng dưới đồi), hay phẫu thuật cắt bỏ tuyến yên. Bệnh nhân mắc đái tháo nhạt thải lượng lớn nước trong một lần tiểu. Máu của họ bị cô đặc lại, khiến bệnh nhân cảm thấy khát.
Các bệnh thận nguyên phát có thể khiến thận ít nhạy hơn với các kích thích từ ADH (đái tháo nhạt do thận). Để phân biệt đái tháo nhạt do thần kinh với đái tháo nhạt do thận, bác sĩ có thể tiến hành nghiệm pháp ngừng uống nước (thử nghiệm kích thích ADH).
Trong nghiệm pháp này, bệnh nhân sẽ không được uống nước, và độ thẩm thấu niệu sẽ được đo trước và sau khi vasopressin được đưa vào cơ thể. Nếu đái tháo nhạt do thần kinh, độ thẩm thấu niệu do giảm lượng nước không thay đổi, trong khi độ thẩm thấu niệu sẽ tăng sau khi đứa vasopressin vào cơ thể.
Trong trường hợp đái tháo nhạt do thận, độ thẩm thiếu niệu sẽ không tăng ngay cả khi giảm lượng nước và dùng vasopressin. Chẩn đoán bệnh có thể kèm theo xét nghiệm ADH huyết thanh. Trong trường hợp đái tháo nhạt do thần kinh, lượng ADH thấp, ngược lại trong trường hợp đái tháo nhạt do thận, lượng ADH cao.
Xem thêm: Xét nghiệm đái tháo nhạt như thế nào?
c. Hội chứng tiết ADH không thích hợp
Lượng ADH huyết thanh cao đi kèm với hội chứng tiết ADH không thích hợp. Đáp ứng lại sự tiết ADH quá mức, nước được thận hấp thụ lại tại thận quá nhiều so với lượng bình thường. Do đó máu bệnh nhân loãng ra và nước tiểu đặc lại. Nồng độ các ion quan trọng trong máu giảm, gây ra các rối loạn nghiêm trọng về thần kinh, tim và chuyển hoá.
Hội chứng tiết ADH không thích hợp cũng đi kèm với các bệnh về phổi (ví dụ như lao phổi, viêm phổi do nhiễm trùng), stress nặng (ví dụ phẫu thuật hay chấn thương), u não, hay nhiễm trùng. ADH tiết ra từ các khối u cũng gây ra hội chứng tiết ADH không thích hợp.
Các khối u gây hội chứng tiết ADH không thích hợp bao gồm các u biểu mô phổi, tuyến ức, khối u hạch lympho, bệnh bạch cầu, các khối u biểu mô tuỵ, đường niệu và ruột. Bệnh nhân mắc bệnh suy tuyến giáp hay bệnh Addison cũng có thể mắc hội tiết ADH không thích hợp.

Bác sĩ dùng nghiệm pháp chặn ADH để phân biệt hội chứng tiết ADH không thích hợp với các nguyên nhân khác gây ra hạ natri máu hay các bệnh lý phù nề. Nghiệm pháp này thường được dùng với đo độ thẩm thấu niệu và thẩm thấu nước tiểu.
Bệnh nhân mắc hội chứng tiết ADH không thích hợp sẽ không thải hoặc thải rất ít lượng nước được uống vào. Hơn nữa, độ thẩm thấu niệu sẽ không bao giờ thấp hơn 100, và tỉ lệ thẩm thấu niệu/máu sẽ cao hơn 100. Bệnh nhân với các nguyên nhân khác gây hạ natri máu, gây phù nề và các bệnh thận mãn tính sẽ thải 80% lượng nước uống vào và sẽ có độ thẩm thấu niệu trung bình.
Kết quả xét nghiệm ADH một mình không phải là một chẩn đoán của một tình trạng bệnh cụ thể. Lượng hormone ADH thường được đánh giá cùng với bệnh sử của một người bệnh, khám lâm sàng và kết quả của các xét nghiệm khác.
Sự dư thừa và thiếu hụt của hormone ADH có thể là tạm thời hay kéo dài, cấp tính hoặc mãn tính và có thể là do một bệnh tiềm ẩn, một nhiễm khuẩn, một bệnh di truyền, hoặc do phẫu thuật hoặc chấn thương não.
Bài viết được tư vấn chuyên môn bởi BS Trịnh Ngọc Bình - Phó ban AloBacsi Cộng đồng
Bài viết có hữu ích với bạn?
Có thể bạn quan tâm
Đăng ký nhận bản tin sức khoẻ
Để chủ động bảo vệ bản thân và gia đình
Đăng ký nhận bản tin sức khoẻ để chủ động bảo vệ bản thân và gia đình
