Sử dụng thuốc bôi ngoài da thế nào cho phù hợp?
Thuốc bôi là một chế phẩm tiện lợi trong điều trị các bệnh tổn thương ngoài da. Tuy nhiên, nó cũng có một số tác dụng phụ đáng kể mà bạn cần quan tâm khi dùng.
Thuốc chống nấm
Thuốc clotrimazole và ketoconazole có phổ tác dụng khá rộng với các loại nấm so với 2 loại thuốc trên nhưng kém hơn so với các chế phẩm mới như terbinafine, ciclopirox olamine và butenafine. Các thuốc chống nấm bôi tại chỗ thường được sử dụng trong điều trị các trường hợp nhiễm nấm nông như lang ben, hắc lào, hăm kẽ, nấm móng, nấm da đầu...
Nấm kẽ và nấm bàn chân ở các vận động viên điền kinh thường gây ra do độ ẩm tại chỗ quá cao, do đó, việc điều trị phải phối hợp giữa thuốc chống nấm với các biện pháp chống ẩm tại chỗ. Nếu có trợt loét do bội nhiễm vi khuẩn cần phối hợp với kháng sinh. Bên cạnh các chỉ định trên, thuốc chống nấm bôi tại chỗ còn được chỉ định trong điều trị viêm da dầu. Mặc dù cơ chế của bệnh còn chưa được biết rõ nhưng việc dùng các thuốc chống nấm bôi như ketoconazole và ciclopirox olamine giúp giảm rõ rệt tình trạng viêm và đóng vảy.
Kháng sinh
Mặc dù có tới hàng trăm chế phẩm kháng sinh khác nhau đã được bào
chế và đưa vào sử dụng nhưng rất ít trong số thuốc này có thể dùng được ngoài da. Mỡ erythromycin
và clindamycin thường được sử dụng trong điều trị trứng cá mủ và viêm nang lông, trong khi đó, các
loại mỡ mupirocin, polymyxin, bacitracin và neomycin thường được dùng trong điều trị các nhiễm
khuẩn ngoài da như bệnh chốc...
Mỡ kháng sinh cũng có tác dụng tốt trong dự phòng nhiễm khuẩn các vết thương ngoài da. Viêm da tiếp xúc là tác dụng phụ thường gặp với các loại mỡ chứa polymyxin, bacitracin và neomycin, do đó nên tránh sử dụng các loại thuốc này nếu có thuốc thay thế thích hợp. Một số trường hợp dị ứng nặng như hội chứng Stevens - Johnson và Lyell do các loại kháng sinh bôi tại chỗ cũng đã được ghi nhận.
Corticoid
Biến chứng này thường xảy ra sớm với các loại corticoid tác dụng mạnh như clobetasol propionate, fluocinolone acetonide... nhưng cũng có thể gặp với các loại tác dụng yếu nếu sử dụng kéo dài và liên tục. Da mặt, nếp gấp và các vùng da mỏng thường bị teo da nhanh nhất trong khi lòng bàn tay, bàn chân thường teo da chậm hơn. Trẻ em có nguy cơ teo da cao. Dùng phối hợp thuốc bôi với thuốc toàn thân hoặc tiếp xúc nhiều với ánh nắng sau thoa thuốc cũng làm tăng nguy cơ teo da. Biểu hiện của teo da bao gồm các vết bầm tím, da trở nên bóng và có các khía.
Tác dụng phụ của corticoid bôi phụ thuộc chủ yếu vào cường độ tác dụng và thời gian sử dụng của thuốc. Trong khi đó, tác dụng điều trị của các thuốc này tỷ lệ thuận với nguy cơ gây tác dụng phụ của thuốc. Các biệt dược khác nhau của cùng một hoạt chất với cùng một hàm lượng cũng có thể có hiệu quả điều trị và nguy cơ gây tác dụng phụ không giống nhau.
Ngoài ra, việc tăng hàm lượng của một hoạt chất corticoid trong thuốc bôi không làm tăng đáng kể hiệu quả điều trị của thuốc, ví dụ, tác dụng chống viêm của mỡ triamcinolone 0,1% không lớn hơn đáng kể so với mỡ triamcinolone 0,025%.
Điều trị các bệnh như Liken phẳng, Lupus ban đỏ ngoài da thường đòi hỏi các loại corticoid bôi tác dụng mạnh, do các bệnh lý này thường có tổn thương viêm ở các lớp sâu của da. Một số bệnh lý có tổn thương viêm da ở quá sâu như sarcoidosis thường không đáp ứng với corticoid bôi tại chỗ do tác dụng phụ của thuốc thường đến trước khi tác dụng chính xuất hiện.
Các thuốc bôi phối hợp
AloBacsi.vn
Theo ThS. Nguyễn Vân Anh - Sức khỏe & Đời sống
Bài viết có hữu ích với bạn?
Có thể bạn quan tâm
Đăng ký nhận bản tin sức khoẻ
Để chủ động bảo vệ bản thân và gia đình
Đăng ký nhận bản tin sức khoẻ để chủ động bảo vệ bản thân và gia đình