Hotline 24/7
08983-08983

GS.TS.BS Nguyễn Văn Tuấn: Có phải F0 nào cũng phải nhập viện điều trị?

Trước tình hình bệnh nhân COVID-19 gia tăng, trở thành gánh nặng của hệ thống y tế TPHCM, GS.TS.BS Nguyễn Văn Tuấn đã có kiến nghị một biện pháp cụ thể về phân nhóm và đánh giá nguy cơ những ca có diễn tiến xấu, qua đó quyết định ai cần nhập viện và ai cách ly tại nhà.

Theo GS.TS.BS Nguyễn Văn Tuấn mấu chốt của vấn đề có vẻ là những ca “F0 triệu chứng trở nặng”, nhưng vị chuyên gia cho rằng không cần cho nhập viện tất cả những trường hợp này. Hiện nay, giới chức y tế không cho biết bao nhiêu người bị nhiễm nhẹ hay không có triệu chứng sau này diễn tiến nặng, mà chỉ chừng ở mức chung chung.

Thực tế, rất nhiều nghiên cứu từ Trung Quốc cho thấy khoảng 15-20% số ca nhẹ chuyển sang nặng. Các nghiên cứu này còn chỉ ra những yếu tố nguy cơ giúp bác sĩ có thể nhận dạng những ca nhiễm như thế, tức diễn biến từ nhẹ sang nặng. GS.TS.BS Nguyễn Văn Tuấn đề xuất, khi Việt Nam chưa có những nghiên cứu như vậy thì nên sử dụng các nghiên cứu trong y văn.

Phân nhóm F0: Nhẹ - cách ly tại nhà, nặng - nhập viện điều trị

“Điểm qua y văn, tôi đề nghị một phương án trước mắt đơn giản, phân nhóm người bị nhiễm, đánh giá nguy cơ diễn biến và quyết định ai cần nhập viện và ai cần cách ly tại nhà” - GS.TS.BS Nguyễn Văn Tuấn nói.

Biểu đồ dưới đây minh hoạ cho đề nghị này:

Bước 1: Khi phát hiện một người bị nhiễm (qua RT-PCR) thì cần phân nhóm: nhẹ, trung, hay nặng. "Nhẹ" là sốt, ho, hoặc không triệu chứng. "Trung" là sốt, ho, viêm phổi, không khó thở. "Nặng" là khó thở hoặc/và tỉ số SpO2<93% hay P/F<300 mmHg. Nhóm nhẹ cho cách li tại nhà. Nhóm nặng cho nhập viện đề điều trị.

Bước 2: Đánh giá nguy cơ trong nhóm trung bình bằng thang điểm dựa vào tuổi > 65, có bệnh nền (tiểu đường, huyết áp, COPD, bệnh thận...), thân nhiệt > 38,5, tỉ số neutrophil trên lymphocyte > 3,7, platelet > 155, total bilirubin > 11, albumin > 38, creatinine > 85, và nếu cần creatinine kinase > 104. Nếu tổng số điểm là 15 trở lên, nhập viện. Nếu thấp hơn 15, có thể cách li tại nhà và theo dõi.

GS.TS.BS Nguyễn Văn Tuấn nhấn mạnh, đây là cách đánh giá nhanh cho bác sĩ không có phương tiện tính toán. Để đánh giá chính xác nên dùng biến liên tục và ước tính xác suất diễn biến xấu cụ thể cho mỗi người (còn gọi là personalized assessment).

Cách ly tại nhà, cần có bác sĩ tư vấn online theo nhóm

Về vấn đề cách ly ở nhà, GS.TS.BS Nguyễn Văn Tuấn cho rằng, y tế địa phương có thể tổ chức một bác sĩ tư vấn online cho mỗi nhóm chừng 20 gia đình có người cách ly. Điều này có nghĩa là cách ly ở nhà nhưng vẫn cần theo dõi qua mạng. Khi có bệnh nhân trở nặng, bác sĩ này sẽ hỗ trợ họ nhập viện.

Mô hình này rất dễ thực hiện và có thể làm ngay tại TPHCM. Khi áp dụng cách này, người dân sẽ không còn lo lắng về việc gọi điện đến đường dây nóng khi cảm thấy cần giúp đỡ mà không gặp được ai hay muốn vào viện mà không gọi được xe cứu thương.

“Bên cạnh đó, các giới chức y tế cần công bố cẩm nang hướng dẫn cụ thể người cách ly tại nhà và người chăm sóc phát hiện sớm diễn biến xấu”.

GS.TS.BS Nguyễn Văn Tuấn đưa ra dẫn chứng, tại Úc đã có cẩm nang hướng dẫn cụ thể cho người chăm sóc người bị nhiễm như không được ra khỏi phòng; cả nhà phải đeo khẩu trang; khử trùng bề mặt bàn ghế và cửa thường xuyên; hướng dẫn người chăm sóc phát hiện dấu hiệu diễn biến xấu.  Mặc dù, môi trường nhà ở các nước phương Tây khác với Việt Nam, nhưng theo ông ở Úc vẫn có thể cách ly trong các căn hộ mà không phải “nhà cao cửa rộng”.

Cuối cùng, GS.TS.BS Nguyễn Văn Tuấn bày tỏ quan điểm, nếu vẫn tiếp tục đưa tất cả F0 vào bệnh viện như báo chí đưa tin sẽ gây áp lực lên hệ thống bệnh viện, khi các bác sĩ phải dàn trải lực lượng để chăm sóc, theo dõi hằng ngày [2].

“Phải thay đổi chủ trương nhập viện. Nên dùng khoa học để phân nhóm và đánh giá người bị nhiễm hợp lý hơn nhằm bảo toàn hệ thống y tế. Chúng ta không ai muốn thấy hệ thống y tế Việt Nam lâm vào tình huống như Nam Dương trong mấy ngày qua” - GS.TS.BS Nguyễn Văn Tuấn chia sẻ.

[HOI]

Cách dùng chữ/thuật ngữ hiện nay có thể gây lẫn lộn và hiểu lầm. Chẳng hạn như người ta định nghĩa "F0 là bệnh nhân được xác định dương tính với COVID-19." Có 2 điều không đúng với định nghĩa này.

Thứ nhất, dương tính với SARS-Cov-2, chứ không phải dương tính với COVID-19. COVID-19 là hậu quả (outcome) của SARS-Cov-2, và có thể tạm xem COVID-19 là "bệnh".

Thứ hai, kết quả xét nghiệm PCR dương tính không có nghĩa là người đó thật sự bị nhiễm, bởi vì phương pháp PCR có thể nhận ra những ca dương tính giả (dương tính nhưng không bị nhiễm). Ngay cả kết quả dương tính thật cũng chưa chắc là COVID-19, bởi vì bác sĩ còn phải đánh giá qua triệu chứng nữa. Do đó, nên dừng gọi hay đề cập F0 là “bệnh nhân”. Họ chỉ là những ca nghi bị nhiễm.

GS.TS.BS Nguyễn Văn Tuấn

[/HOI]

[DAP]

Giáo sư Ian Frazer, Chủ tịch Viện hàn lâm y học Australia trao chứng chỉ cho GS.TS.BS Nguyễn Văn Tuấn trong buổi lễ kết nạp tân viện sĩ Viện hàn lâm. Ảnh: Tạp chí sức khỏe

GS.TS.BS Nguyễn Văn Tuấn là giám đốc Chương trình Nghiên cứu di truyền dịch tễ học và loãng xương thuộc Viện nghiên cứu Y khoa Garvan, Australia. Ông hiện còn là Giáo sư Y khoa của Đại học New South Wales, Giáo sư của Đại học Công nghệ Sydney, và Adjunct professor (Giáo sư kiêm nhiệm) dịch tễ học và thống kê thuộc Đại học Notre Dame.

GS.TS.BS Nguyễn Văn Tuấn là người gốc Á châu duy nhất được bầu vào Viện hàn lâm y học Australia và cũng là người gốc Việt đầu tiên trở thành viện sĩ Viện Hàn lâm Y học Australia bởi những đóng góp xuất sắc của ông cho y học, đặc biệt là lĩnh vực loãng xương.

Ông cũng là giáo sư gốc Việt đầu tiên ở Australia được trao học vị Doctor of Science, học vị cao nhất trong hệ thống giáo dục đại học Australia.

Năm 2018, GS.TS.BS Nguyễn Văn Tuấn đã được trường Đại học Công nghệ Sydney (UTS) trao huy chương về thành tích nghiên cứu ngoại hạng có tác động lớn đến chuyên ngành (Chancellor’s Medal for Exceptional Research).

Giải thưởng là hạng cao nhất trong 7 hạng mục về học thuật của UTS dành cho những nhà khoa học có đóng góp quan trọng cho đại học này và Australia với những thành tựu mang tính tiên phong, ảnh hưởng lớn trong chuyên ngành.

Trong gần 30 năm qua, GS.TS.BS Nguyễn Văn Tuấn đã có những đóng góp lớn cho chuyên ngành. Những đóng góp của ông gồm đánh giá và chẩn đoán loãng xương, di truyền loãng xương và nghiên cứu về yếu tố dẫn đến loãng xương. Ông đã công bố hơn 300 công trình khoa học trên các tạp chí ISI uy tín và là một trong những giáo sư y khoa được trích dẫn nhiều nhất thế giới.

Ông là Phó chủ tịch Hội đồng biên tập và thẩm định của tạp chí Journal of Bone and Mineral Research. Ngoài ra, ông từng phụ trách biên tập cho tạp chí Osteoporosis International và Journal of Bone Densitometry. Hiện nay, ông thuộc Hội đồng biên tập và thẩm định của Journal of the Endocrine Society, JBMR Plus, Osteoporosis and Sarcopenia...

Ở Việt Nam, ông Tuấn là một trong những thành viên sáng lập Hội loãng xương TPHCM (năm 2005) và giữ vai trò cố vấn khoa học cho đến nay. Những đóng góp của ông không chỉ trong chuyên ngành loãng xương và nội tiết mà còn về chất độc da cam. Ông là người Việt đầu tiên công bố nghiên cứu về mối liên quan giữa chất độc da cam và dị tật bẩm sinh trên tập san y khoa quốc tế và viết sách bằng tiếng Việt về vấn đề chất da cam.

[/DAP]

Đối tác AloBacsi

Đăng ký nhận bản tin sức khoẻ

Để chủ động bảo vệ bản thân và gia đình

Đăng ký nhận bản tin sức khoẻ để chủ động bảo vệ bản thân và gia đình

hoàn toàn MIỄN PHÍ

Khám bệnh online

X