Cập nhật các điểm nổi bật về nghiên cứu và điều trị trong lĩnh vực Hồi sức tích cực - Chống độc
Hội nghị Khoa học kỹ thuật năm 2023 do Bệnh viện Đa khoa khu vực Thủ Đức tổ chức vào sáng 15/12/2023 đã diễn ra với 2 phiên báo cáo. Trong đó, phiên 1 của hội nghị tập trung vào các vấn đề liên quan đến Khoa Hồi sức tích cực - Chống độc như ứng dụng ECMO trong thực hành lâm sàng, hạ thân nhiệt, kiểm soát thân nhiệt,…
Bệnh viện Đa khoa khu vực Thủ Đức hướng đến bệnh viện đa khoa hạng 1 với quy mô 1.000 giường
BS.CK2 Hồ Thanh Phong - Trưởng phòng Kế hoạch Tổng hợp, Bệnh viện Đa khoa khu vực Thủ Đức mở đầu phiên 1 của hội nghị với bài báo cáo “Tổng quan phát triển các kỹ thuật chuyên khoa sâu tại khoa Hồi sức tích cực - Chống độc, Bệnh viện Đa khoa khu vực Thủ Đức”.
BS.CK2 Hồ Thanh Phong cho biết, Bệnh viện Đa khoa khu vực Thủ Đức thành lập năm 1978 trên cơ sở tiếp nhận tu viện. 15/11/2021, bệnh viện chính thức khởi công để đưa vào hoạt động khối nhà mới với quy mô 1.000 giường, vào 30/4/2025.
Bệnh viện nằm ở vị trí cửa ngõ phía Đông Bắc TPHCM, giáp các tỉnh Bình Dương, Bình Phước, Đồng Nai và Vũng Tàu, tiếp nhận và giảm tải bệnh cho các bệnh viện trung tâm. Trong năm 2023, lượt khám ngoại trú từ 2.500 - 2.800 lượt/ngày (40% khu vực tiếp giáp); nội trú hơn 700 giường (30% khu vực tiếp giáp). Bệnh viện được đầu tư trang thiết bị hiện đại từ xét nghiệm đến chẩn đoán hình ảnh.
Từ tháng 2/2020 - 6/2023 đã thực hiện 1.000 ca can thiệp nội mạch. Bên cạnh đó, Ngoại khoa của bệnh viện khá phát triển. Khoa Chấn thương chỉnh hình thực hiện thành công nhiều trường hợp thay khớp (khớp háng, khớp gối, khớp vai),… Ngoài mổ chấn thương sọ não, khoa Ngoại Thần kinh thực hiện tốt phẫu thuật về cột sống và sọ não. Phối hợp đa mô thức trong điều trị, kết hợp can thiệp nội mạch và Ngoại khoa (chấn thương bụng kín, u gan, u màng não).
Khoa Hồi sức tích cực được thành lập từ năm 2005, tách ra từ khoa Cấp Cứu. Năm 2019, Khoa Hồi sức tích cực có 20 giường hồi sức Nội khoa và Ngoại khoa với 14 máy thở. Đến tháng 5/2020, Khoa Hồi sức tích cực được đưa vào sử dụng với 26 giường, triển khai các kỹ thuật thận nhân tạo, hạ thân nhiệt,…
Các ca thay huyết tương đầu tiên được thực hiện vào năm 2019, chủ yếu là viêm tụy cấp do tăng Triglyceride, hội chứng Guillain Barre, nhược cơ. Bên cạnh đó, khoa Hồi sức còn chú trọng chăm sóc toàn diện bệnh nhân, trong đó có kỹ thuật hút áp lực âm liên tục (VAC) điều trị các trường hợp loét tì đè, hậu phẫu.
Với những trường hợp sốc nhiễm trùng nặng sau khi hồi phục, khoa Hồi sức vận chuyển bệnh nhân chạy thận rất khó khăn nên đã thành lập hệ thống RO. Ngoài ra, thận nhân tạo còn kết hợp với quả lọc hấp phụ để điều trị các trường hợp ngộ độc.

Bên cạnh đó, khoa Hồi sức còn triển khai chăm sóc toàn diện bệnh nhân. Một hoạt động không thể thiếu của khoa Hồi sức là dược lâm sàng, đáp ứng hoạt động đi buồng, phân tích sử dụng thuốc, hiệu chỉnh liều, tư vấn sử dụng thuốc; phối hợp thực hiện các nghiên cứu tại khoa Hồi sức tích cực - Chống độc. Sau thời gian tiếp cận, khám,… việc tư vấn dùng thuốc trong hồi sức rất quan trọng, đặc biệt là kháng sinh.
Để hướng đến bệnh viện đa khoa hạng 1 với 1.000 giường, thực hiện được các kỹ thuật chuyên sâu, Khoa Hồi sức tích cực - Chống độc tiếp tục duy trì thành công các trường hợp Nội khoa, thành lập hồi sức Ngoại khoa 25 giường để hồi sức tất cả các trường hợp liên quan Ngoại Thần kinh, Ngoại Tổng hợp - Đơn vị Ung Bướu, Ngoại Chấn thương chỉnh hình và Ngoại Tiết niệu. Đặc biệt, chú trọng đào tạo, bổ sung nguồn nhân lực đáp ứng hồi sức phẫu thuật lồng ngực, mạch máu và phẫu thuật tim.
“Định hướng đến năm 2025, Khoa Hồi sức Ngoại có thể thành lập đội ngũ kỹ thuật chuyên môn tốt để triển khai các kỹ thuật mới. Ngoài ra, sẽ đào tạo nguồn nhân lực để bổ sung các kỹ thuật như nội soi phế quản, ECMO.
Với tinh thần phát triển chuyên môn để phục vụ bệnh nhân Khoa Hồi sức tích cực - Chống độc sẽ cử nhân sự đến học tại các bệnh viện, nhằm phát triển y tế chuyên sâu theo định hướng chung ngành y tế TPHCM” - BS.CK2 Hồ Thanh Phong chia sẻ thêm.
Nhiễm MRSA dẫn đến kéo dài thời gian nằm viện, tỷ lệ tử vong trên 50%
Chương trình được tiếp nối với bài báo cáo “Đánh giá AUC24 và các yếu tố tác động đến AUC24 trong truyền tĩnh mạch liên tục vancomycin trên bệnh nhân nặng tại khoa Hồi sức tích cực” của DS Trần Bảo Minh Hiền - Bệnh viện Đa khoa khu vực Thủ Đức.
DS Trần Bảo Minh Hiền cho biết: “Bệnh nhân nặng tại Khoa Hồi sức tích cực là bệnh nhân có nguy cơ cao nhiễm khuẩn mắc phải tại bệnh viện. Trong đó, có nhiễm MRSA dẫn đến kéo dài thời gian nằm viện, tỷ lệ tử vong trên 50% (gấp 2,7 lần so với các nhóm bệnh nhân khác).
Bên cạnh đó, bệnh nhân hồi sức tích cực còn trải qua các biện pháp hồi sức dẫn đến thay đổi các thông số dược động học (PK) như tăng thể tích phân bố (Vd), chuyển hóa và thải trừ thuốc”.
Truyền tĩnh mạch liên tục (CI) vancomycin là một liệu pháp thay thế mới trên nhóm bệnh nặng. CI được định nghĩa là đưa thuốc vào cơ thể với một tốc độ nhất định và liên tục trong 24 giờ qua tĩnh mạch máu. Phương pháp này giúp sớm đạt AUC24 trong 48 giờ đầu tiên, nhằm tối ưu hiệu quả điều trị và giảm đồ kháng.
Bệnh nhân nặng tại Khoa Hồi sức tích cực có CI vancomycin được đưa vào nghiên cứu từ tháng 09/2022 đến tháng 09/2023 tại Bệnh viện Đa khoa khu vực Thủ Đức.
Tiêu chuẩn chọn vào là bệnh nhân trên 18 tuổi; CI vancomycin bằng bơm tiêm điện; Sử dụng liều tải từ 15 - 20 mg/kg (truyền trong 60 phút) và liều duy trì 30 - 40 mg/ngày CI trong 24 giờ; Bệnh nhân có ít nhất một mẫu định tượng trong khoảng 48 - 72 giờ sau khi sử dụng vancomycin.
Tiêu chuẩn loại trừ là những bệnh nhân chạy thận nhân tạo (IHD), thẩm phân phúc mạc (PD), lọc máu liên tục (CRRT), bệnh nhân là phụ nữ có thai và cho con bú.
Kết quả đặc điểm AUC24 lần đầu tiên có trung vị là 644 (IQR 412-927) mg.h/L. 56% bệnh nhân có AUC24 lần đầu trên ngưỡng, 25% bệnh nhân có AUC24 lần đầu dưới ngưỡng và 19% bệnh nhân đạt mục tiêu.
Về hạn chế, đa số bệnh nhân được sử dụng cân nặng ước tính (thay vì cân nặng thực tế) để tính liều tải và liều duy trì. Tuy nhiên, nghiên cứu phản ánh thực tế lâm sàng tại Khoa Hồi sức tích cực.
DS Trần Bảo Minh Hiền thông tin thêm: “Hơn một nửa bệnh nhân hồi sức tích cực có AUC24 lần đầu > 600 mg.h/L và có sự dao động lớn về giá trị AUC24 theo thời gian. Điều này đẩy mạnh vai trò của TDM vancomycin và sự phối hợp với dược sĩ lâm sàng trên việc điều trị để cải thiện tỷ lệ đạt mục tiêu AUC24.
Với bệnh nhân tuổi cao hơn liên quan đến tăng nguy cơ AUC24 lần đầu trên ngưỡng. Đặc biệt bệnh nhân ngoại khoa, bệnh nhân có hậu phẫu sọ não, có tình trạng tăng thanh thải thận là những bệnh nhân tăng nguy cơ AUC24 lần đầu dưới ngưỡng mục tiêu. Tỷ lệ tổn thương thận cấp sau 48 giờ thấp”.
Bên cạnh đó, DS Trần Bảo Minh Hiền cũng kiến nghị, cần thiết có thiết bị để xác định cân năng thực tế của bệnh nhân. Đánh giá các yếu tố tiên lượng (tuổi, giới tính, nội khoa/ngoại khoa, chức năng thận và thuốc vận mạch) giúp các bác sĩ cân nhắc lâm sàng về liều dùng trước khi sử dụng vancomycin. Trong tương lai, cần có các nghiên cứu để đánh giá những yếu tố tác động đến AUC24 của bệnh nhân theo thời gian. Ngoài ra, cần cập nhật các hướng dẫn cá thể hóa và hiệu chỉnh liều trong CI vancomycin.
Bệnh viện Chợ Rẫy có số lượng bệnh nhân ECMO lớn nhất cả nước
Tập trung vào vấn đề “Ứng dụng ECMO trong thực hành lâm sàng tại khoa Hồi sức cấp cứu khu B, Bệnh viện Chợ Rẫy”, BS.CK2 Trần Thanh Linh - Trưởng khoa Hồi sức Cấp cứu khu B - Bệnh viện Chợ Rẫy cho biết: “Tính đến hiện nay, số lượng bệnh nhân ECMO tại Bệnh viện Chợ Rẫy là lớn nhất cả nước (chiếm gần 2/3), hơn 500 bệnh nhân triển khai ECMO tại đây”.
Có thể triển khai Veno-venous mode (VV ECMO) trên những bệnh nhân tổn thương phổi nặng nguy kịch không thể kiểm soát bằng thở máy hoặc trong các trường hợp cấp tính như viêm cơ tim cấp, sốc nhồi máu cơ tim, bệnh nhân ngừng tim trước viện,…
Hiện nay, chỉ định ECMO được mở rộng cho các trường hợp hô hấp như suy hô hấp giảm oxy máu; suy hô hấp tăng thán khí; suy hô hấp trong ghép phổi (chờ ghép phổi, sau ghép phổi); rò khí quản - màng phổi và rò khí ở phổi; quản lý đường thở phức tạp (phẫu thuật lồng ngực, phẫu thuật khí phế quản).

BS.CK2 Trần Thanh Linh nhấn mạnh: “ECMO là công cụ mạnh mẽ giúp hỗ trợ hô hấp và hoặc tuần hoàn, ứng dụng nhiều trong lĩnh vực hồi sức tại các bệnh viện, đặc biệt là bệnh viện hạng 1. Kỹ thuật này giúp phát triển ngành hồi sức, mang lại nhiều thành công mặc dù có một số biến chứng. Tuy nhiên, cần có sự đam mê, kiên nhẫn xây dựng từng bước và không ngừng cải tiến”.
Hạ thân nhiệt bề mặt được thực hiện nhanh chóng, dễ dàng với chi phí tốt
Xoay quanh vấn đề “Hạ thân nhiệt chỉ huy trên bệnh nhân ngưng hô hấp tuần hoàn: ca lâm sàng”, BS.CK1 Nguyễn Thị Thanh Tú - Khoa Hồi sức tích cực - Chống độc, Bệnh viện Đa khoa khu vực Thủ Đức chi sẻ: “Hạ thân nhiệt điều trị (hypothermia therapy) là phương pháp dùng các biện pháp cơ học đưa nhiệt độ trung tâm cơ thể xuống dưới mức nhiệt độ sinh lý (< 36.5°C). Kiểm soát thân nhiệt theo đích (targeted temperature management - TTM) gồm có hạ thân nhiệt điều trị (hypothermia therapy); Kiểm soát bình thường hỏa thân nhiệt (normothermia); Làm ấm (warming)”.
Trong các bệnh viện đã tiến hành hạ thân nhiệt chỉ huy tại TPHCM, theo thống kê, Bệnh viện Chợ Rẫy đã thực hiện 28 ca (2020 - 2022), 62% kết cục thần kinh tốt; Bệnh viện nhân dân Gia Định với 33 ca (2017 - 2021), 30% kết cục thần kinh tốt và Bệnh viện Đa khoa khu vực Thủ Đức có 3 ca (2023), 33% kết cục thần kinh tốt.
Quá trình hạ thân nhiệt gồm 4 giai đoạn. Giai đoạn cảm ứng (làm lạnh nhanh) sẽ nhanh chóng đưa nhiệt độ cơ thể xuống mức nhiệt độ đích chọn trước từ 33 - 36˚C, tùy theo bác sĩ điều trị sẽ cân nhắc tình trạng lâm sàng của bệnh nhân và quyết định. Giai đoạn duy trì sẽ duy trì nhiệt độ đích đã chọn trong vòng 24 giờ. Giai đoạn làm ẩm, đưa nhiệt độ cơ thể về 37˚C với tốc độ tăng dần từ 0,1 - 0,5 ˚C thường lựa chọn 0,25˚C trogn vòng 1 giờ. Giai đoạn bình thường hóa thân nhiệt sẽ duy trì nhiệt độ cơ thể 37˚C trong ít nhất 24 giờ.
Kỹ thuật hạ thân nhiệt thường chỉ định ở những bệnh nhân ngừng tuần hoàn có tái lập tuần hoàn tự nhiên, sau cấp cứu ngừng tuần hoàn Glasgow ≤ 8 điểm và thời gian tốt nhất là trước 6 giờ.
Không chỉ định hạ thân nhiệt khi huyết động khó kiểm soát, tình trạng sốc nhiễm khuẩn chưa kiểm soát được, chảy máu nặng, bệnh lý mạn tính giai đoạn cuối và bệnh nhân lớn tuổi.
Có 2 phương pháp hạ thân nhiệt là hạ thân nhiệt nội mạch và hạ thân nhiệt bề mạch. Đối với hạ thân nhiệt bề mạch rất đơn giản, dễ sử dụng, không sử dụng phương tiện xâm lấn, thay vào đó là sử dụng bộ áo giáp (tùy theo kích thước, cân nặng, chiều cao) và kết nối hệ thống máy để kiểm soát thân nhiệt của bệnh nhân.
BS.CK1 Nguyễn Thị Thanh Tú nhấn mạnh: “CPR chất lượng cao là tiên quyết và hạ thân nhiệt càng sớm càng tốt. Hạ thân nhiệt bề mặt có thể được khởi động nhanh chóng, dễ dàng với chi phí tốt và nhiệt độ mục tiêu của bệnh nhân là 32 - 36˚C tùy theo đánh giá của bac sĩ lâm sàng tại thời điểm đó”.
Ngừng tim ngoài bệnh viện vẫn là thách thức lớn trên toàn thế giới
Cùng vấn đề trên, TS.BS Huỳnh Văn Ân - Bệnh viện Nhân dân Gia Định đã trình bày bài báo cáo “Kiểm soát thân nhiệt mục tiêu tại Bệnh viện Nhân dân Gia Định trên bệnh nhân hôn mê sau ngừng tim ngoài bệnh viện”.
Đối tượng nghiên cứu trong vòng 4 năm (11/2017 - đến 5/2021), trên 33 bệnh nhân ngừng tim trước viện (OHCA) có phục hồi tuần hoàn tự phát (ROSC) được kiểm soát thân nhiệt mục tiêu nội mạch tại Bệnh viện Nhân dân Gia Định.
Bệnh nhân được đặt catheter hạ thân nhiệt vào tĩnh mạch đùi; đặt nhiệt kế thực quản để theo dõi thân nhiệt trong suốt quá trình kiểm soát nhiệt độ. Catheter hạ thân nhiệt nội mạch và nhiệt kế thực quản được kết nối với máy hạ thân nhiệt Zoll (Mỹ) để thực hiện và theo dõi trong suốt quá trình kiểm soát thân nhiệt mục tiêu.
Thực hiện kiểm soát thân nhiệt mục tiêu gồm 3 giai đoạn: Giai đoạn làm lạnh, nhanh chóng đưa nhiệt độ cơ thể bệnh nhân xuống 33˚C. Giai đoạn duy trì, giữ nhiệt độ ở 33˚C trong vòng 24 giờ kể tiếp và giai đoạn làm ấm, nâng dần nhiệt độ bệnh nhân với tốc độ 0,25˚C/giờ cho đến khi đạt nhiệt độ bình thường 37˚C.
Tỷ lệ bệnh nhân sống khi ra viện với chức năng thần kinh tốt là 30,3%. Trong đó, nhóm ngừng tim do nguyên nhân tim là 40% và nhóm không do nguyên nhân tim là 22,2%.
Theo thông tin của TS.BS Huỳnh Văn Ân, 90% OHCA tử vong trước khi nhập viện, chỉ 10% được đưa vào đơn vị cấp cứu và < 5% được xuất viện. 60% OHCA tử vong tại hiện trường, và gần 50% bệnh nhân ngừng tim đạt được ROSC sống sót với tổn thương thần kinh tối thiểu. Tỷ lệ tử vong và tỷ lệ mắc OHCA thường là kết quả của “hội chứng sau ngừng tim”, đặc trưng do thiếu máu cục bộ toàn bộ cơ thể do thiếu tuần hoàn và tổn thương tái tưới máu sau ROSC, đặc biệt là ở não”.
Kết luận lại vấn đề, TS.BS Huỳnh Văn Ân cho biết: “Ngừng tim ngoài bệnh viện vẫn là thách thức lớn trên toàn thế giới. Bên cạnh đó, kiểm soát thân nhiệt mục tiêu được chứng minh là có hiệu quả trong việc cải thiện cả khả năng sống sót và phục hồi thần kinh ở bệnh nhân hôn mê sau ngừng tim ngoài bệnh viện”.
61% tác nhân gây nhiễm khuẩn là vi khuẩn đa kháng ESKAPE

Ngoài ra, TS.BS Huỳnh Văn Ân - Bệnh viện Nhân dân Gia Định còn mang đến hội nghị bài báo cáo thứ hai với nội dung “Điều trị nhiễm khuẩn do vi khuẩn Gram âm đa kháng thuốc”.
Tại đây, TS.BS Huỳnh Văn Ân cho biết, khảo sát VINA RES về tình trạng nhiễm khuẩn bệnh viện ở 14 bệnh viện tại Việt Nam, có đến 61% tác nhân gây nhiễm khuẩn là vi khuẩn đa kháng ESKAPE.
Nhiễm khuẩn Gram âm PDR và DTR gần đây được bảo cáo trên toàn cầu và có tỷ lệ tử vong cao, các lựa chọn điều trị rất hạn chế. Điều trị kết hợp kháng sinh hiệp đồng có hứa hẹn, giới hạn dữ liệu trong các báo cáo hàng loạt ca. Sự ra đời của các kháng sinh mới có tiềm năng lớn, chủ yếu là sự kết hợp chất ức chế B-lactamase - B-lactam, cefiderocol và eravacycline.
Sốc nhiễm khuẩn là gánh nặng bệnh tật hàng đầu trên toàn thế giới
Về nội dung “Liệu pháp thay huyết tương và thải CO2 qua màng lọc máu ngoài cơ thể: nguyên lý và ứng dụng lâm sàng” - TS.BS Huỳnh Quang Đại - Bệnh viện Chợ Rẫy thông tin: “Trong cơ thể máu gồm 2 thành phần chính là huyết cầu 45% gồm hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu và huyết tương 55%, là thành phần dịch của máu chứa các chất điện giải, glucose, axit amin, lipid, albumin, các yếu tố đông máu,… nếu có kỹ thuật thay thế huyết tương sẽ giải quyết được một số bệnh lý.
Hiện tại, có 2 kỹ thuật phân tách máu là máy ly tâm, sử dụng lực ly tâm để tách các thành phần có tỷ trọng khác nhau và màng lọc”.
Đối với nhược cơ, thay huyết tương (Therapeutic plama exchange - TPE) nhằm loại bỏ các kháng thể lưu hành, thường chỉ định trong đợt cấp, trước và sau phẫu thuật cắt tuyến ức, bắt đầu càng sớm hiệu quả càng cao. Ngoài ra, hiệu quả TPE với IVIG như nhau, hiệu quả bắt đầu xuất hiện sau 24 giờ và kéo dài 2 - 4 tuần. Do đó, phải phối hợp các thuốc ức chế miễn dịch.
Sốc nhiễm trùng, sốc nhiễm khuẩn là gánh nặng bệnh tật hàng đầu trên toàn thế giới, 1 năm có khoảng 11 triệu người tử vong vì tình trạng này và tỷ lệ tử vong tại Việt Nam cũng rất cao. Như vậy, điều trị sốc nhiễm khuẩn là một thách thức và hiện tại thay huyết tương được xem là liệu pháp hứa hẹn nhất.
Bên cạnh đó, máy lọc máu hiện tại không chỉ điều trị thay thế thận mà còn hỗ trợ nhiều cơ quan khác như phổi, gan, hỗ trợ thần kinh,… Đối với ECCO2R có 3 nhóm chỉ định là V-V ECMO, V-V ECCO2R và CRRT + ECCO2R.
Hội chứng GBS ảnh hưởng đến dây thần kinh tự chủ
Chương trình được tiếp nối với bài báo cáo “Thay huyết tương ở bệnh nhân Guillain Barre: Ca lâm sàng” của ThS.BS Nguyễn Quý - Bệnh viện Đa khoa khu vực Thủ Đức.
Guillain Barre (GBS) là bệnh lý thần kinh cấp tính thông qua trung gian miễn dịch sau nhiễm trùng dẫn đến sự phá hủy tự miễn của các dây thần kinh ngoại biên và có triệu chứng tê, ngứa rạn và yếu có thể tiến triển đến liệt.
Bệnh có thể hồi phục hoàn toàn, 25% Guillain Barre diễn tiến suy hô hấp và tỷ lệ tử vong 3 - 5%. Xảy ra ở mọi lứa tuổi, nhưng thường gặp từ 30 - 50 tuổi. Mặc dù hiếm gặp nhưng có tỷ lệ mắc từ 0,4 đến 2/100.000 dân/năm.
Về lâm sàng, ảnh hưởng thần kinh ngoại biên nên ảnh hưởng vận động (co cơ) và cảm giác (đau, nóng, chạm). Đặc điểm, đầu tiên là yếu hoặc dị cảm (ngứa ran), đột ngột bắt đầu ở chân lan lên tay và mặt, với mức độ từ nhẹ đến nặng.
Ngoài ra, bệnh nhân có thể đau cơ sâu ở lưng và/hoặc ở chân; tê liệt chân, tay, cơ mặt; nghiêm trọng hơn sẽ tê liệt gần như toàn bộ. 1/3 hội chứng Guillain Barre yếu cơ hô hấp gây khó thở, đây là nguyên nhân gây tử vong nhiều nhất. Một số triệu chứng khác như khó nói, khó nuốt, khó di chuyển mắt và các vấn đề về thị lực.
Các triệu chứng tiến triển sau nhiều giờ, vài ngày hoặc vài tuần. Hầu hết đều diễn tiến đến giai đoạn nhược cơ nghiêm trọng trong 2 tuần đầu tiên và 90% GBS ở trạng thái yếu nhất trong tuần thứ 3.
ThS.BS Nguyễn Quý nhấn mạnh: “Hội chứng GBS ảnh hưởng đến dây thần kinh tự chủ. Trong đó, hệ thống thần kinh tự chủ kiểm soát các chức năng tự động của cơ thể như nhịp tim, huyết áp và tiêu hóa. Vì vậy, một số biến chứng do rối loạn thần kinh tự chủ gây rối loạn nhịp tim, huyết áp không ổn định; giảm nhu động đường ruột; bí tiểu.
Sau nhiễm khuẩn khoảng 70% GBS có triệu chứng bắt đầu sau 1 - 6 tuần. Kết quả phản ứng bất thường của hệ thống miễn dịch tấn công làm ảnh hưởng thần kinh ngoại biên dẫn đến tình trạng tự miễn dịch nhưng không phải bệnh mạn tính. Bệnh dây thần kinh là tổn thương dây thần kinh ngoại biên, hệ thống miễn dịch tấn công các dây thần kinh nhanh chóng trong nhiều ngày và mất myelin”.
Ghi nhận 2/3 trường hợp GBS bệnh nhân bị tiêu chảy hoặc nhiễm trùng đường hô hấp vài tuần trước khi xuất hiện các triệu chứng. Campylobacter jejuni là một trong những nguyên nhân phố biến. Ngoài ra, còn nhiễm virus khác như virus cúm, Cytomegalovirus, Epstein-Barr virus, Zikavirus,… một số hiếm trường hợp sau tiêm, vaccine và phẫu thuật là rất hiếm.
Hiện tại, có rất nhiều biến thể GBS, tuy nhiên có 4 dạng chính: Đầu tiên là bệnh đa dây thần kinh mất myelin do viêm cấp tính (AIDP), phổ biến ở Châu Âu, thường rối loạn vận động, đôi khi có rối loạn cảm giác và thần kinh tự chủ; Thứ hai là hội chứng Miller Fisher (MFS), phổ biến ở Châu Á, tê liệt bắt đầu từ mắt, đứng không vững, mất điều hòa, mất phản xạ;
Thứ ba là bệnh lý thần kinh sợi trục vận động cấp tính (AMAN) phổ biến ở Châu Á, chỉ bệnh thần kinh vận động; Thứ tư, bệnh lý sợi trục cảm giác vận động cấp tính (AMSAN) ở Châu Á, bệnh về thần kinh vận động và cảm giác.
Chẩn đoán chủ yếu dựa vào đặc điểm bệnh sử: yếu tiến triển cả chi trên và chi dưới trong vòng 4 tuần, mất các phản xạ; Dịch não tủy: bình thường ở giai đoạn đầu (50%), ở đỉnh của bệnh tăng protein và tế bào bình thường (80 - 90%); Điện cơ để chẩn đoán và phân loại dạng tổn thương; Chụp MRI cột sống loại trừ bệnh lý rễ thần kinh.
Điều trị cần theo dõi diễn tiến của bệnh, đặc biệt trong tuần đầu tiên sau khi phát bệnh. Theo dõi biến động huyết áp, nhịp tim, dấu hiệu lâm sàng suy hô hấp, tắc ruột. Điều trị đặc hiệu của hội chứng GBS hiện tại sử dụng IVIG hoặc thay huyết tương (TPE), sau đó điều trị hỗ trợ và biến chứng.
Thay huyết tương ở GBS đem lại lợi ích về giảm tỉ lệ biến chứng suy hô hấp, rút ngắn thời gian hồi phục (đi lại không cần trợ giúp), rút ngắn thời gian thở máy. Đồng thời phục hồi các cơ sau 1 năm và giảm các di chứng nặng sau 1 năm. Tuy nhiên chi phí cao nhưng bù lại giảm thời gian nằm viện.
Kết luận vấn đề, ThS.BS Nguyễn Quý cho biết: “Điều trị TPE ở bệnh nhân Guillain Barre có hiệu quả tốt. TPE giúp cải thiện triệu chứng nhanh, ngăn ngừa các biến chứng nặng như suy hô hấp, làm giảm di chứng, giảm thời gian nằm viện. TPE vẫn có lợi cho bệnh nhân trong giai đoạn muộn, tuy nhiên nên được tiến hành trong giai đoạn sớm (7 ngày sau khởi phát). Về dịch thay thế, albumin được ưu tiên hơn”.






Suy đa tạng là nguyên nhân tử vong chính trong các đơn vị Hồi sức tích cực, chiếm tỷ lệ cao 60 - 80%
Tiếp nối đề tài trên, ThS.BS Nguyễn Quý - Khoa Hồi sức tích cực - Chống độc, Bệnh viện Đa khoa khu vực Thủ Đức trình bày nội dung “Kết quả điều trị suy đa tạng do sốc nhiễm khuẩn có lọc máu hấp phụ”.
Sốc nhiễm khuẩn là bệnh lý nặng nề gây tổn thương tế bào, đáp ứng miễn dịch mất kiểm soát của cơ thể với nhiễm khuẩn và giải phóng nhiều yếu tố gây viêm dẫn đến suy tuần hoàn cấp giảm oxy mô, suy đa tạng, thậm chí tử vong.
Suy đa tạng là rối loạn chức năng ít nhất 2 hệ thống cơ quan mà không thể duy trì sự cân bằng nội môi. Suy đa tạng là nguyên nhân tử vong chính trong các đơn vị Hồi sức tích cực, chiếm tỷ lệ cao 60 - 80%.
Số lượng tạng suy, thời gian xuất hiện, mức độ nặng của tạng suy càng tăng tiên lượng nặng càng cao. Điều trị suy đa tạng do sốc nhiễm khuẩn gặp nhiều khó khăn, chậm trễ điều trị mỗi giờ dẫn đến tăng tỷ lệ tử vong khoảng 8%. Chiến lược giảm tỷ lệ tử vong là phối hợp nhanh chóng, đồng thời nhiều phương pháp điều trị, kháng sinh phổ rộng, giải quyết ở nhiễm khuẩn, lọc máu…
Lọc máu đã được áp dụng ở bệnh nhân sốc nhiễm khuẩn có tổn thương thận cấp (AKI). Lọc máu hấp phụ với màng lọc Oxiris (màng AN69 phủ PEI và Heparin) từ đó tăng khả năng hấp phụ cytokin, độc tố của vi khuẩn và giảm tiến trình tổn thương tạng.
Khoa Hồi sức tích cực - Chống độc Bệnh viện Đa khoa khu vực Thủ Đức đã áp dụng kỹ thuật lọc máu hấp phụ bằng quả Oxiris từ 2021 đến nay, thực hiện trên 250 quả lọc.
ThS.BS Nguyễn Quý kiến nghị: “Nên áp dụng liệu pháp lọc máu hấp phụ cho các bệnh nhân suy đa tạng do sốc nhiễm khuẩn. Bên cạnh đó, cần nghiên cứu với cả mẫu lớn, thiết kế nghiên cứu ngẫu nhiên để khẳng định liệu pháp lọc máu hấp phụ trên bệnh nhân suy đa tạng do sốc nhiễm khuẩn”.
Phiên 2 của hội nghị: Phiên Dược Hội nghị thường niên BVĐK Khu vực Thủ Đức, nóng chủ đề về kháng kháng sinh và điều trị rối loạn lipid máu
Bài viết có hữu ích với bạn?
Có thể bạn quan tâm
Đăng ký nhận bản tin sức khoẻ
Để chủ động bảo vệ bản thân và gia đình
Đăng ký nhận bản tin sức khoẻ để chủ động bảo vệ bản thân và gia đình
