Trên thực tế đã có nhiều bệnh nhân nhập viện trong tình trạng không cử động được do hội chứng chèn ép dưới mỏm cùng vai.
Nguyên nhân do đâu?
Các nguyên nhân dẫn đến triệu chứng đau vùng quanh vai có thể là các biểu hiện chèn ép thần kinh vùng cột sống cổ, các tổn thương trực tiếp của khớp vai như thoái hóa khớp vai hay hoại tử chỏm xương cánh tay vô khuẩn, hội chứng chèn ép khoang dưới mỏm cùng vai. Trong đó, hội chứng chèn ép dưới mỏm cùng vai là nguyên nhân tương đối thường gặp, đặc biệt ở bệnh nhân tuổi trung niên.
Hội chứng này là tình trạng khoang giữa mỏm cùng vai và các gân cơ chóp xoay bị thu hẹp, tình trạng này dẫn đến các bệnh lý vùng vai như viêm túi hoạt dịch, viêm gân, viêm khớp và tổn thương gân cơ chóp xoay.
Đau vùng quanh vai là triệu chứng do nhiều nguyên nhân gây nên |
Cảnh giác với đau khớp vai khi dang tay
Các động tác của khớp vai, đặc biệt là động tác đưa tay quá đầu được thực hiện bởi 2 nhóm cơ chính là delta và nhóm các cơ chóp xoay (gồm có 4 cơ là trên gai, dưới gai, dưới vai và tròn bé). Nhóm các cơ chóp xoay hợp với nhau tạo thành một gân rất chắc bám vào đầu trên xương cánh tay gọi là gân cơ chóp xoay.
Khi thực hiện động tác dang cánh tay quá đầu, các cơ này trượt trong khoang dưới mỏm cùng vai. Khoang này nằm dưới mỏm cùng vai, trong khoang có gân chóp xoay và các túi hoạt dịch có tác dụng bôi trơn khi gân cơ chóp xoay di chuyển.
Khi khoang này bị hẹp lại, thường do nguyên nhân thoái hóa hoặc chấn thương, gân cơ chóp xoay và các túi hoạt dịch bị chèn ép, từ đó sẽ dẫn đến viêm túi hoạt dịch, viêm gân chóp xoay. Nặng hơn sẽ dẫn đến rách chóp xoay.
Các nguyên nhân dẫn đến hẹp khoang dưới mỏm cùng vai có thể là chấn thương, hoặc có các động tác lặp đi lặp lại (thường gặp ở những người chơi các môn thể thao phải đưa tay quá đầu hoặc người lao động thường xuyên phải có các động tác dang tay quá đầu).
Một nguyên nhân khác cũng tương đối thường gặp là sự hình thành các chồi xương trong tổn thương của bệnh lý thoái hóa.
Chẩn đoán thế nào?
Khi nghi ngờ hội chứng chèn ép dưới mỏm cùng vai, bác sĩ sẽ hỏi bệnh sử, nghề nghiệp... nhằm tìm hiểu tính chất của cơn đau. Các động tác thăm khám nhằm tìm ra dấu hiệu của hội chứng chèn ép dưới mỏm cùng vai cũng như có hay không tình trạng viêm gân, viêm túi hoạt dịch, viêm khớp hay rách chóp xoay đi kèm.
Chụp X-quang khớp vai là cần thiết để tìm các dấu hiệu bất thường của cấu trúc xương hay viêm khớp. Một số người có tình trạng mỏm cùng hạ thấp hơn so với bình thường làm hẹp khoang dưới mỏm cùng được xác định trên Xquang. Gai xương nếu có cũng sẽ thấy rõ trên Xquang.
Chụp MRI được chỉ định khi nghi ngờ có tổn thương rách chóp xoay, viêm gân hay bệnh lý ở sụn viền. Đôi khi siêu âm vùng vai cũng cho thấy được hình ảnh rách chóp xoay.
Một nghiệm pháp được sử dụng nhằm loại trừ các bệnh lý ở vùng cổ gây đau ở khớp vai: Tiêm một lượng thuốc tê nhất định vào khoang dưới mỏm cùng, nếu bệnh nhân đỡ đau ngay thì nguyên nhân gây đau vai là do hội chứng chèn ép dưới mỏm cùng vai.
Phát hiện sớm phòng tránh tổn thương
Hội chứng chèn ép dưới mỏm cùng vai thường gặp ở bệnh nhân tuổi trung niên và quan trọng hơn là có thể điều trị có hiệu quả nếu phát hiện sớm ở giai đoạn đầu khi chưa dẫn đến các bệnh lý vùng vai như viêm túi hoạt dịch, viêm gân, viêm khớp và tổn thương gân cơ chóp xoay.
Khi ở giai đoạn đầu điều trị sẽ là giảm đau, kháng viêm. Các phương pháp thường sử dụng là nghỉ ngơi, chườm đá phối hợp với thuốc kháng viêm như aspirin, naproxen, diclofenac... Bác sĩ sẽ theo dõi đáp ứng của bệnh nhân, trong một số trường hợp có thể sử dụng các phương pháp như siêu âm, chiếu tia hồng ngoại để tăng cường lượng máu tới các mô ở khớp vai.
Khi bệnh nhân đỡ đau sẽ tiến hành các bài tập vật lý trị liệu. Nếu các biện pháp trên không mang lại hiệu quả, bác sĩ có thể tiêm steroid trực tiếp vào khoang dưới mỏm cùng. Tuy nhiên, steroid có thể gây đứt gân cũng như các tác dụng phụ về lâu dài nên nó không phải là phương pháp điều trị lâu dài cho hội chứng chèn ép dưới mỏm cùng vai cũng như các bệnh lý khác ở vùng vai.
Phẫu thuật được chỉ định khi không có cải thiện sau 6 tháng đến 1 năm điều trị bảo tồn. Có hai phương pháp hiện đang được sử dụng là mổ mở và mổ nội soi, cả hai phương pháp đều có thể sửa chữa các tổn thương và làm giảm áp lực đè ép lên túi hoạt dịch và chóp xoay.
Ngày nay, phẫu thuật với kỹ thuật nội soi phổ biến hơn do những ưu việt trong việc cải thiện các triệu chứng đau và tính thẩm mỹ. Mục tiêu của phẫu thuật là nhằm làm rộng khoảng cách giữa mỏm cùng và gân chóp xoay bằng cách làm sạch các tổn thương thoái hóa, các chồi xương và một phần của mỏm cùng vai. Nếu có tổn thương rách chóp xoay có thể sẽ được phục hồi đồng thời. Sau mổ cánh tay sẽ được treo hay mang nẹp để bất động.
Hầu hết các trường hợp sẽ được tập vật lý trị liệu nhằm tránh cứng khớp, hạn chế phù nề sau mổ. Chườm lạnh sau mổ giúp co mạch máu làm hạn chế phản ứng viêm đau sau mổ. Giai đoạn sau là tập mạnh gân cơ chóp xoay. Cần tập phục hồi chức năng theo sự hướng dẫn của kỹ thuật viên vật lý trị liệu.
Lời khuyên của bác sĩ
Điều trị phục hồi chức năng đóng vai trò rất quan trọng, không chỉ trong các trường hợp không phẫu thuật mà ngay cả trong trường hợp sau phẫu thuật.
Phục hồi chức năng nhằm mục đích tránh teo cơ và cứng khớp, đồng thời phục hồi sức mạnh của các cơ sau một thời gian bị bệnh đã kém đi. Đối với phục hồi chức năng khớp vai, quá trình này sẽ diễn ra rất chậm, bắt đầu là những bài tập vận động thụ động kéo dài trong vài tuần, sau đó mới là những bài tập chủ động.
Quá trình tập này có thể kéo dài từ vài tuần đến vài tháng tùy theo việc có thực hiện phẫu thuật tạo hình lại gân chóp xoay hay không. Trong một số trường hợp, tổn thương của chóp xoay lớn hoặc là diễn biến đã lâu, tình trạng cơ yếu kéo dài, việc phục hồi chức năng có thể chỉ cải thiện một phần, đôi khi bệnh nhân phải tập để thay đổi thói quen sử dụng cánh tay bị tổn thương.