Phụ nữ bệnh tim và nguy cơ tử vong khi mang thai
Sản phụ bị bệnh tim thì thai nghén trở thành một gánh nặng, có thể gây ra những biến chứng nguy hiểm dẫn đến tử vong cho cả mẹ và thai nhi.
Kiểm tra tim mạch trước khi có thai
Phụ nữ bị bệnh tim nên được khám, đánh giá tình trạng sức khỏe trước và sau khi mang thai. Việc lượng giá trước nguy cơ của thai nghén dựa trên kết quả thăm khám bởi các BS tim mạch và BS sản khoa. Đánh giá tình trạng tim mạch bao gồm hỏi tiền sử và khám thực thể cẩn thận, làm điện tâm đồ, siêu âm tim. Trắc nghiệm gắng sức đo mức độ tiêu thụ oxy để đánh giá mức độ suy tim một cách khách quan.
Sự thay đổi sinh lý về giải phẫu và chức năng của hệ thống tim mạch trong thời kỳ mang thai có thể gây ra các triệu chứng và dấu hiệu giống như bệnh tim. Các triệu chứng này bao gồm mệt mỏi, giảm khả năng gắng sức, thở gấp, hồi hộp, chóng mặt và thậm chí ngất. Trong nhiều trường hợp cần phải làm các thăm dò để có thêm thông tin chính xác về tình trạng tim mạch trước khi quyết định điều trị.
Thời kỳ mang thai cần chú ý gì?
Việc thăm khám trong quá trình mang thai nên định kỳ hằng tháng đối với các sản phụ bệnh nhẹ và 2 tuần với các sản phụ bệnh ở mức độ trung bình đến nặng, sau 28-30 tuần chuyển khám hằng tuần cho đến khi sinh con. Khi cần thiết phải sử dụng thuốc để điều trị, nên sử dụng liều thuốc thấp nhất có hiệu quả điều trị cho mẹ và an toàn cho thai nhi.
Để hạn chế biến chứng, các sản phụ bị bệnh tim cần phải có sự tư vấn cẩn thận, theo dõi chặt chẽ và điều trị tích cực của các BS chuyên khoa tim mạch và chuyên khoa sản.
Giai đoạn chuyển dạ, đẻ và ngay sau đẻ
Thời điểm và cách thức sinh con nên được tư vấn và quyết định bởi BS tim mạch, BS sản khoa và BS gây mê sản khoa. Sinh thường với gây tê giảm đau phù hợp và việc làm ngắn giai đoạn 2 của thời kỳ sinh thì an toàn và có thể thực hiện được ở hầu hết các sản phụ bị bệnh tim. Phẫu thuật lấy thai có nguy cơ bị biến chứng cao hơn.
Thay vì mất máu khi sinh, giai đoạn sau khi sinh có sự tăng dòng máu tĩnh mạch trở về. Những thay đổi về huyết động đó có thể dẫn đến suy tim do vậy cần phải tiếp tục theo dõi huyết động 12-24 giờ sau khi sinh.
Dự phòng viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn
Người bị bệnh tim có tỷ lệ bị nhiễm khuẩn huyết cao hơn khi chuyển dạ và khi sinh. Vi khuẩn được phát hiện thấy trong máu ở 14% phụ nữ sau khi chuyển dạ hay vỡ ối và rất nhiều vi khuẩn phân lập được có khả năng gây viêm nội tâm mạc. Vì sản phụ bị bệnh tim có nguy cơ viêm nội mạc nhiễm khuẩn trong quá trình sinh nở nên việc sử dụng kháng sinh dự phòng khi chuyển dạ được chỉ định cho tất cả sản phụ bị bệnh tim.
Mỗi năm trên thế giới có khoảng 200 triệu phụ nữ có thai, trong số đó có khoảng 500.000 sản phụ bị tử vong do các biến chứng có liên quan đến thai nghén.
Phụ nữ bị bệnh tim nên được khám, đánh giá tình trạng sức khỏe trước và sau khi mang thai. Việc lượng giá trước nguy cơ của thai nghén dựa trên kết quả thăm khám bởi các BS tim mạch và BS sản khoa. Đánh giá tình trạng tim mạch bao gồm hỏi tiền sử và khám thực thể cẩn thận, làm điện tâm đồ, siêu âm tim. Trắc nghiệm gắng sức đo mức độ tiêu thụ oxy để đánh giá mức độ suy tim một cách khách quan.
Sự thay đổi sinh lý về giải phẫu và chức năng của hệ thống tim mạch trong thời kỳ mang thai có thể gây ra các triệu chứng và dấu hiệu giống như bệnh tim. Các triệu chứng này bao gồm mệt mỏi, giảm khả năng gắng sức, thở gấp, hồi hộp, chóng mặt và thậm chí ngất. Trong nhiều trường hợp cần phải làm các thăm dò để có thêm thông tin chính xác về tình trạng tim mạch trước khi quyết định điều trị.
Thời kỳ mang thai cần chú ý gì?
Việc thăm khám trong quá trình mang thai nên định kỳ hằng tháng đối với các sản phụ bệnh nhẹ và 2 tuần với các sản phụ bệnh ở mức độ trung bình đến nặng, sau 28-30 tuần chuyển khám hằng tuần cho đến khi sinh con. Khi cần thiết phải sử dụng thuốc để điều trị, nên sử dụng liều thuốc thấp nhất có hiệu quả điều trị cho mẹ và an toàn cho thai nhi.
Để hạn chế biến chứng, các sản phụ bị bệnh tim cần phải có sự tư vấn cẩn thận, theo dõi chặt chẽ và điều trị tích cực của các BS chuyên khoa tim mạch và chuyên khoa sản.
Giai đoạn chuyển dạ, đẻ và ngay sau đẻ
Thời điểm và cách thức sinh con nên được tư vấn và quyết định bởi BS tim mạch, BS sản khoa và BS gây mê sản khoa. Sinh thường với gây tê giảm đau phù hợp và việc làm ngắn giai đoạn 2 của thời kỳ sinh thì an toàn và có thể thực hiện được ở hầu hết các sản phụ bị bệnh tim. Phẫu thuật lấy thai có nguy cơ bị biến chứng cao hơn.
Thay vì mất máu khi sinh, giai đoạn sau khi sinh có sự tăng dòng máu tĩnh mạch trở về. Những thay đổi về huyết động đó có thể dẫn đến suy tim do vậy cần phải tiếp tục theo dõi huyết động 12-24 giờ sau khi sinh.
Dự phòng viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn
Người bị bệnh tim có tỷ lệ bị nhiễm khuẩn huyết cao hơn khi chuyển dạ và khi sinh. Vi khuẩn được phát hiện thấy trong máu ở 14% phụ nữ sau khi chuyển dạ hay vỡ ối và rất nhiều vi khuẩn phân lập được có khả năng gây viêm nội tâm mạc. Vì sản phụ bị bệnh tim có nguy cơ viêm nội mạc nhiễm khuẩn trong quá trình sinh nở nên việc sử dụng kháng sinh dự phòng khi chuyển dạ được chỉ định cho tất cả sản phụ bị bệnh tim.
Mỗi năm trên thế giới có khoảng 200 triệu phụ nữ có thai, trong số đó có khoảng 500.000 sản phụ bị tử vong do các biến chứng có liên quan đến thai nghén.
AloBacsi.vn
Theo Sức khỏe & đời sống
Theo Sức khỏe & đời sống
Bài viết có hữu ích với bạn?
Có thể bạn quan tâm
Đăng ký nhận bản tin sức khoẻ
Để chủ động bảo vệ bản thân và gia đình
Đăng ký nhận bản tin sức khoẻ để chủ động bảo vệ bản thân và gia đình