Hotline 24/7
08983-08983

Kỹ thuật nuôi trưởng thành noãn

Đó là việc nuôi trứng của người phụ nữ cho trưởng thành bên ngoài cơ thể, rồi sau đó mới tiến hành thụ tinh, phát triển thành phôi...

 Lợi điểm của IVM

Trong các phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm (TTTON - còn gọi là kỹ thuật hỗ trợ sinh sản; hay sinh con bằng phương pháp khoa học), có kỹ thuật nuôi trưởng thành noãn (In-vitro maturaion - IVM) được phát triển gần đây, đó là quá trình nuôi trưởng thành trứng bên ngoài cơ thể của người phụ nữ từ giai đoạn còn là túi mầm đến giai đoạn đầu kỳ giữa, rồi cho trứng thụ tinh phát triển thành phôi bình thường, trước khi chọn phôi tốt để chuyển vào buồng tử cung để phôi làm tổ phát triển thành bào thai.

Báo cáo tại hội thảo khoa học giữa các nhà chuyên môn thuộc nhiều lĩnh vực diễn ra vừa qua ở BV An Sinh (TP.HCM), bác sĩ Hồ Mạnh Tường - Tổng thư ký Hội Nội tiết sinh sản & Vô sinh TP cho biết, kỹ thuật IVM được xem là một cải tiến của TTTON về quy trình thu nhận noãn - thay vì phải dùng rất nhiều nội tiết tố để kích thích các nang noãn phát triển, thì với IVM có thể thu nhận noãn trực tiếp từ các nang noãn nhỏ có sẵn trên buồng trứng, mà không cần phải dùng thuốc nội tiết kích thích.

Một phác đồ làm TTTON cho các cặp vợ chồng có kết hợp IVM có lợi điểm là: không dùng thuốc kích thích buồng trứng (hoặc dùng rất ít); bệnh nhân tốn ít thời gian đến bệnh viện hơn (đến để tiêm thuốc, siêu âm, xét nghiệm). Nhờ đó chi phí sẽ giảm, cũng như loại trừ được nguy cơ quá kích buồng trứng, giảm tỷ lệ biến chứng; rút ngắn thời gian điều trị - một phác đồ TTTON kéo dài từ 2-4 tuần thì với IVM chưa đến 1 tuần.

Áp dụng ra sao?

Theo BS Hồ Mạnh Tường, với những chị em làm TTTON mà đang có tình trạng buồng trứng đa nang (những người này dễ mắc nguy cơ cao bị quá kích buồng trứng khi làm TTTON), thì nên áp dụng kỹ thuật TTTON - IVM, đây cũng là chỉ định phổ biến nhất hiện nay trên thế giới. Ngoài ra, IVM còn được mở rộng chỉ định cho nhiều trường hợp khác, bởi vì trong việc TTTON thì chi phí cho tiền thuốc để kích thích buồng trứng là rất lớn, chiếm 60-70% tổng số tiền cho một đợt điều trị. Nếu làm được với kỹ thuật IVM thì trung bình một bệnh nhân chỉ tiêm khoảng 4 mũi thuốc, thay vì phải tiêm từ 20-40 mũi như thường lệ. 

Tính đến thời điểm hiện tại, theo thống kê chưa đầy đủ, trên thế giới có khoảng 2.000 em bé chào đời từ kỹ thuật IVM (trong đó Việt Nam với khoảng 100 trường hợp). Tại Việt Nam, kỹ thuật IVM được nghiên cứu vào năm 2006, và bắt đầu phát triển khoảng 3 năm trở lại đây. Theo khảo sát sơ bộ trên 183 bệnh nhân dùng kỹ thuật IVM cho thấy tỷ lệ có thai lâm sàng là 28,2%.

 
Theo Thanh Tùng - Thanh Niên

Đối tác AloBacsi

Đăng ký nhận bản tin sức khoẻ

Để chủ động bảo vệ bản thân và gia đình

Đăng ký nhận bản tin sức khoẻ để chủ động bảo vệ bản thân và gia đình

hoàn toàn MIỄN PHÍ

Khám bệnh online

X