Tiểu đường: bệnh cần nghiêm trị!
Khi người bệnh có đường trong nước tiểu thì thường đã ở giai đoạn muộn, nhiều khi đã có biến chứng, đặc biệt đối với đái tháo đường týp 2.
Tiểu đường là tiểu ra... đường?
|
Tuỳ theo tình trạng thiếu hụt insulin, người ta phân biệt hai loại đái tháo đường: týp 1 và týp 2. Trong đái tháo đường týp 1 có sự thiếu insulin tuyệt đối do tế bào bêta (tế bào tiết ra insulin) của tuyến tuỵ bị quá trình tự miễn gây huỷ hoại hoàn toàn. Đái tháo đường týp 1 thường xảy ra ở người trẻ tuổi, và trong điều trị, bắt buộc phải dùng thuốc insulin (vì vậy, đái tháo đường týp 1 còn gọi là đái tháo đường phụ thuộc insulin).
Để biết có bị đái tháo đường hay không, nhất thiết phải đến bác sĩ để thăm khám và cho làm xét nghiệm đo đường trong máu. Một số người tự chẩn đoán bằng cách xem nước tiểu có bị kiến bu do nước tiểu chứa đường (vì có tên bệnh là "tiểu đường" mà!) là không đúng. Khi người bệnh có đường trong nước tiểu thì thường đã ở giai đoạn muộn, nhiều khi đã có biến chứng, đặc biệt đối với đái tháo đường týp 2.
Thuốc trị gồm những gì?
Trong đái tháo đường týp 1, do tế bào bêta tuyến tuỵ bị huỷ hoại (thường qua cơ chế rối loạn đáp ứng miễn dịch gọi là tự miễn) nên không tiết ra được insulin, phải điều trị bằng insulin là một protein gồm 51 axít amin phân làm hai chuỗi polypeptide (chuỗi A gồm 21 axít amin, chuỗi B gồm 30 axít amin) nối với nhau bởi hai liên kết dusulfid. Trong đái tháo đường týp 2, sự thiếu insulin do ba bất thường: giảm tiết insulin, đề kháng insulin (do giảm tác dụng của insulin trên tế bào mô đích, đặc biệt là tế bào cơ) và tăng sản xuất glucose từ gan. Vì vậy, để điều trị phải dùng các nhóm thuốc hạ đường huyết loại uống như sau:
Làm tăng tiết insulin: gồm có nhóm sulfonylure (glibenclamid, glicazid, glimepirid) và nhóm glitinid (repaglinid, nateglinid).
Cải thiện tình trạng kháng insulin: gồm nhóm biguanid (chỉ có metformin) và nhóm thiazolidinedion (TZD, gồm hai thuốc rosiglitazon - đã bị cấm - và pioglitazon).
Ngăn hấp thu carbohydrat ở ruột: có nhóm thuốc ức chế men alpha-glucosidase như acarbose, voglibose, miglitol.
Ngoài các thuốc kể trên hiện nay còn có các thuốc mới như thuốc tăng cường hoặc bắt chước incretin (exenatid), thuốc ức chế enzym DPP-4 (sitagliptin, vildagliptin).
Những điều cần lưu ý
Hiện nay, có nhiều thuốc trị đái tháo đường bị cấm hoặc được khuyến cáo cao độ vì gây tác dụng có hại ở mức trầm trọng. Như rosigitazon đã bị cấm vì gây hại cho tim mạch, còn pioglitazon đang bị cảnh giác do làm tăng nguy cơ ung thư bàng quang. Tuy nhiên, người đang dùng thuốc trị đái tháo đường nên yên tâm dùng đúng thuốc đã được chỉ định. Bác sĩ điều trị cho bạn luôn cập nhật thông tin về thuốc để điều chỉnh khi có sự cố bất thường về sử dụng thuốc. Bác sĩ trực tiếp điều trị là người có thẩm quyền cao nhất về chế độ dùng thuốc, vì vậy hãy hỏi bác sĩ khi có thắc mắc về thuốc đang dùng chứ không bỏ ngang việc dùng thuốc, có khi sẽ nguy hiểm.
|
Dựa vào đâu để biết bị đái tháo đường?
Năm 1998, WHO quy định chẩn đoán xác định đái tháo đường dựa vào một trong ba tiêu chí sau:
1. Đường huyết tương lúc đói (đo glucose trong huyết tương sau tám giờ không ăn) là ≥126mg/dl (≥7mmol/l). 2. Đường huyết tương hai giờ sau nghiệm pháp dung nạp glucose (tức đo đường huyết tương hai giờ sau khi uống 75 glucose) là ≥200mg/dl (≥11,1mmol/l). 3. Đường huyết tương ở thời điểm bất kỳ (tức đo bất cứ lúc nào trong ngày không tính đến thời gian của bữa ăn cuối) là ≥200mg/dl (≥11,1mmol/l), kèm theo có triệu chứng điển hình của tăng đường huyết gồm uống nhiều, tiểu nhiều, sụt cân không giải thích được. |
Bài viết có hữu ích với bạn?
Có thể bạn quan tâm
Đăng ký nhận bản tin sức khoẻ
Để chủ động bảo vệ bản thân và gia đình
Đăng ký nhận bản tin sức khoẻ để chủ động bảo vệ bản thân và gia đình
