Thuốc trị bệnh do ký sinh trùng đường ruột
Bệnh do ký sinh trùng đường ruột gây ra là một bệnh khá phổ biến ở nước ta. Bệnh chủ yếu lây truyền qua thức ăn, nước uống thiếu vệ sinh.
Giun kim: Loại giun này chủ yếu gây nhiễm ở lứa tuổi trẻ em. Nhiễm do thức ăn hoặc nước bẩn có chứa trứng giun, nhiễm tự nhiên ở trẻ em theo đường phân - tay - miệng. Biểu hiện chủ yếu là trẻ em bị ngứa hậu môn làm mất ngủ, do gãi có thể gây ra các vết xước quanh hậu môn, trẻ gái có thể bị viêm âm hộ âm đạo. Điều trị bằng mebendazole, flubendazole hoặc albendazole.
Giun đũa: Bệnh do nhiễm loại Ascaris lumbricoides. Lây nhiễm do ăn hoặc uống nước có nhiễm trứng giun. Điều trị bằng mebendazole, flubendazole hoặc albendazole. Thuốc cần uống theo chỉ định của bác sĩ.
Giun móc: Bệnh thường gặp ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới có khí hậu nóng ẩm. Giun trưởng thành dài 1 - 2cm sống ở tá tràng và hỗng tràng, mỗi con hút máu khoảng 0,2ml/ngày, sống trung bình 5 năm do đó gây tình trạng thiếu máu nhược sắc nặng. Điều trị bằng mebendazole, flubendazole hoặc albendazole.
Giun lươn: Là loại Strongyloides stercoralis, loại giun này nhỏ dài 2 - 3cm, sống ở đoạn đầu ruột non, ít gặp hơn giun đũa và giun móc; ký sinh nhiều năm trong cơ thể vật chủ. Phát triển ở khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới nóng ẩm. Điều trị đặc hiệu là dùng thibendazole, có thể điều trị bằng mebendazole, flubendazole hoặc albendazole.
Giun tóc: Do loại Trichiuris Trichiura sống ở đại tràng, thường gặp nhất ở khu vực kém vệ sinh. Lây nhiễm do thức ăn, đồ uống sống, bẩn chứa trứng giun. Thường không có triệu chứng, phát hiện tình cờ qua xét nghiệm phân. Điều trị bằng mebendazole, flubendazole hoặc albendazole.
Nhiễm sán
Sán xơ mít: Gồm Taenia saginata và Taenia solium, đây là loại giun dẹt có đốt, dài 6-10m; Biểu hiện khi nhiễm: đau bụng mơ hồ, không đặc hiệu, chán ăn hoặc ăn không biết no. Điều trị bằng nicosamid hoặc praziquantel.
Sán lá gan lớn: Do nhiễm loài sán Fasciola hepatica. Biểu hiện lâm sàng chia làm 3 giai đoạn, biểu hiện cấp tính là giai đoạn ấu trùng vào gan, các triệu chứng sẽ là sốt, đau vùng gan, tăng bạch cầu ái toan, gan to, chức năng gan bị tổn thương; giai đoạn tiềm tàng biểu hiện với các triệu chứng rối loạn tiêu hóa mơ hồ, đây là lúc sán khu trú trong đường mật; giai đoạn tắc nghẽn là hậu quả của viêm và phì đại đường mật. Thuốc được lựa chọn trong điều trị sán lá gan lớn hiện nay là triclabendazol hoặc bithionol. Tốt nhất là khi đã thấy các biểu hiện nghi ngờ, người bệnh nên đến các cơ sở y tế chuyên khoa để được tư vấn, xét nghiệm và điều trị.
Sán lá gan nhỏ: Trứng sán nở trong nước hoặc được ốc ăn vào sẽ nở thành ấu trùng, ấu trùng thâm nhập vào cá, đóng nang, người ăn phải loại cá này chưa nấu chín (chủ yếu do tập quán ăn gỏi cá) sẽ mắc bệnh. Biểu hiện lâm sàng âm thầm và không đặc hiệu với sốt, đau bụng và tiêu chảy. Nếu để lâu dài không điều trị sẽ dẫn đến các biến chứng viêm đường mật, xơ quanh khoảng cửa, có thể xuất hiện ung thư biểu mô đường mật. Khi được phát hiện kịp thời, bệnh sán lá gan nhỏ có đáp ứng tốt với các thuốc điều trị. Praziquantel là thuốc được lựa chọn hàng đầu trong việc điều trị bệnh sán lá gan nhỏ. Người bệnh mắc sán lá gan cần phải theo dõi điều trị tại các cơ sở y tế có chuyên khoa ký sinh trùng.
Bài viết có hữu ích với bạn?
Có thể bạn quan tâm
Đăng ký nhận bản tin sức khoẻ
Để chủ động bảo vệ bản thân và gia đình
Đăng ký nhận bản tin sức khoẻ để chủ động bảo vệ bản thân và gia đình