Sóng gió trong “làng” thuốc tiểu đường
Thuốc là “con dao 2 lưỡi”. Nếu không tổ chức tốt việc cập nhật các thông tin về tác dụng phụ thì khác nào giấu đi một lưỡi, dễ bất ngờ làm đứt tay người dùng.
Nhóm glitazon sớm bước lên bục vinh quang
Trong bối cảnh ấy, nhóm glitazon (thioglitazonedion) ra đời với dược tính độc đáo. Glitazon phức hợp với thụ thể PPAR (trong nhân của tế bào của các mô nhạy cảm với insulin ở tụy, gan, mạch máu...), qua đó thúc đẩy sự sao chép điều hòa gen, giúp tổng hợp một số protein cần cho các tế bào đáp ứng với insulin; từ đó giúp cơ thể tận dụng insulin nội sinh bằng cách làm tăng tính cảm thụ, tăng hiệu suất hoạt động... nên có hiệu lực kiểm soát đường huyết tốt mà không gây kích thích làm suy kiệt tuyến tụy.
Ngoài ra, glitazon còn làm giảm lipid máu, cải thiện lâu dài tỉ số cholesterol toàn phần/trên HDL, giảm triglycerid, tăng tiêu sợi huyết, giảm albumin niệu, giảm huyết áp tâm trương, ngăn ngừa các chất trung gian (như CPR) gây viêm thành mạch... từ đó góp phần giảm các biến chứng không truyền thống của ĐTĐ; có lợi cho người bị ĐTĐ lâu năm, nặng, nhờn với các thuốc khác, thích hợp với người cao tuổi có kèm bệnh tim mạch. Chúng được xếp ngay vào vị trí đầu, được đón nhận nồng nhiệt.
... Song cũng sớm bị vùi dập
Thuốc thứ nhất trong nhóm glitazon là troglitazon (Tr) được PDA cấp phép tháng 1/1997. Không lâu sau, Cơ quan dược phẩm Anh phát hiện thuốc gây độc cho gan và quyết định thu hồi tháng 12 cùng năm. Đến năm 2000, Mỹ, Nhật Bản cũng rút Tr ra khỏi thị trường. Dù tồn tại trong thời gian ngắn, Tr đã gây ra 90 trường hợp suy gan trầm trọng!
Thuốc thứ hai rosiglitazon (Rs) được PDA cấp phép năm 1999. 6 năm đầu, doanh số cao, trung bình 1,5 tỉ USD/năm. Nửa đầu năm 2007, nhiều nghiên cứu trong đó có 3 tổng phân tích của nhà sản xuất, của FDA, Nisissen SE và Wolski, cho biết: Rs làm tăng 43% nguy cơ cơn đau tim, tăng 27% nguy cơ đột quỵ so với các nhóm kiểm chứng. Cuối 2007 - 2010 có thêm nhiều bằng chứng: 2 tổng phân tích bao gồm 10 nghiên cứu ngẫu nhiên cho thấy dùng Rs bị nguy cơ nhồi máu cơ tim cấp cao hơn dùng giả dược từ 30-80% (Nisissen SE, Wolski-2010; FDA - 2010). 7 nghiên cứu bệnh chứng, 14 nghiên cứu thuần tập (FDA-2010), đặc biệt nghiên cứu của FDA (Davis Graham DJ - 2010) trên 225.000 người dùng, đều đi đến kết luận là Rs gây ra tai biến tim mạch hoặc tử vong hơn pioglitazon 25%. Qua tranh luận gay gắt và vài lần trì hoãn, cuối cùng FDA cũng cho rút Rs khỏi thị trường. Trước đó, mạnh mẽ và dứt khoát hơn, tháng 7/2010 Vương quốc Anh, tháng 9/2010 EMA (châu Âu) đã cấm lưu hành Rs.
Thuốc thứ 3 pioglitazon (Po) ra đời gần cùng lúc với Rs. Từ khi Rs bị cho là có tác dụng nguy hiểm, doanh số Po có cơ hội tăng, đạt 2,4 tỉ USD/năm (2008). Tuy tác dụng phụ trên tim mạch thấp hơn Rs, song Po cũng làm tăng nguy cơ suy tim sung huyết; hiệu lực bảo vệ tim mạch của Po khá khiêm tốn, không có ý nghĩa lâm sàng! Trong khi đó, Po bị nghi gây ung thư bàng quang. Bình thường các ung thư (tụy, gan, vú, nội mạc tử cung, trực tràng, bàng quang...) ở người ĐTĐ týp 2 vốn có tỉ lệ mắc cao hơn trong dân số chung. Do vậy, việc đánh giá mối liên quan giữa chúng rất khó khăn. Theo đó, việc xác định Po gây ung thư bàng quang càng nan giải.
Tuy nhiên, gần đây đã có bằng chứng về một nghiên cứu phân tích dữ liệu từ hệ thống báo cáo tác dụng phụ của FDA (2004 - 2005) cho thấy glicrazid, acabose chỉ gây ra lần lượt 6 và 4 thì Po gây ra đến 31 trường hợp ung thư bàng quang. Tháng 6/2011, có 3 sự kiện liên tiếp: Cơ quan An toàn sản phẩm y tế Pháp quyết định thu hồi Po vì gây ung thư cao; tiếp sau đó, Viện Y tế liên bang Đức khuyên không kê đơn Po để tiếp tục điều tra. FDA cảnh báo dùng Po hơn 1 năm có thể bị ung thư bàng quang, buộc nhà sản xuất ghi cảnh báo lên nhãn. Đến thời điểm này, Po vẫn còn được lưu hành song liệu tới đây Po còn chỗ đứng trong điều trị TĐ týp 2 không vẫn còn là câu hỏi còn bỏ ngỏ!
Nghĩ về thông tin thuốc
Trong hơn 10 năm, lịch sử phát minh dược phẩm đã ghi nhận nhiều cơn sóng gió tương tự. Chẳng hạn: nhóm kháng viêm coxib tạo ra sự phấn khích lớn khi mới ra đời vì làm giảm 30 - 50% tác dụng phụ viêm loét đường tiêu hóa, song sau đó có nhiều thuốc bị cấm (rofecobxib - 2004) do làm tăng đột quỵ, nhồi máu cơ tim (valdecoxib - 2005) do gây độc, hoại tử biểu bì (lumitacoxib - 2007) do gây độc gan) nay chỉ còn duy nhất celecoxib nhưng tác dụng phụ trên tim mạch vẫn còn tranh luận.
Từ các cơn sóng gió này có thể nghĩ về thông tin thuốc:
Người bệnh nhất là những người mắc bệnh mạn tính (viêm khớp, ĐTĐ, ung thư...) luôn mong đợi và thường cảm nhận bồng bột với thuốc mới phát minh (thấy nhiều ưu điểm, ít nhược điểm). Nước ta ít hoặc thường chậm nhập các thuốc này nên sự bồng bột ấy còn cao hơn.
Khi thuốc được các nước tiên tiến (như Mỹ, Anh, Pháp...) chấp nhận, ta có thói quen “tin tưởng tuyệt đối” các thông tin mà các hãng đưa ra khi trình xét lần đầu ở nước sở tại. Thực ra, sau đó chúng thường được phát hiện thêm tác dụng phụ. Phần đông bác sĩ, dược sĩ ít có điều kiện cập nhật thông tin “hậu mại” này; đến nỗi có thuốc khi Bộ Y tế thông báo cấm thì không ít người thấy đột ngột, chưa hiểu hết lý do. Nên chăng cần một tổ chức mạnh có đủ điều kiện giúp bác sĩ, dược sĩ đặc biệt ở tuyến dưới nắm bắt thông tin này.
Ta có trung tâm theo dõi tác dụng không mong muốn của thuốc (ADR) nhưng các cơ sở khám chữa bệnh chưa theo dõi, báo cáo ADR đầy đủ, đều đặn. Thiết nghĩ, vì sự dùng thuốc an toàn, cần khắc phục sớm khiếm khuyết này.
Bài viết có hữu ích với bạn?
Có thể bạn quan tâm
Đăng ký nhận bản tin sức khoẻ
Để chủ động bảo vệ bản thân và gia đình
Đăng ký nhận bản tin sức khoẻ để chủ động bảo vệ bản thân và gia đình