Sơ cứu khi bị bỏng theo hướng dẫn của chuyên gia chăm sóc vết thương
Thương tích do bỏng không chỉ gây đau đớn, di chứng nặng nề, thậm chí tử vong. Bỏng và di chứng do bỏng còn là gánh nặng tài chính rất lớn cho gia đình và xã hội. BS.CK2 Trần Đoàn Đạo đã chia sẻ những kiến thức về cách sơ cứu khi bị bỏng, để hạn chế mức độ nghiêm trọng đồng thời hỗ trợ quá trình điều trị, phục hồi sau này.
BS.CK2 Trần Đoàn Đạo nhấn mạnh: “6 giờ đầu sau tổn thương bỏng là thời gian quan trọng cho sơ cấp cứu. Xử lý ban đầu đúng sẽ giúp giảm diện tích bỏng, giảm thiểu độ sâu bỏng, diễn biến bệnh thuận lợi và giảm tỷ lệ tử vong”.

Những tổn thương lâu dài do bỏng phụ thuộc vào tính chất của tác nhân, cường độ và thời gian tiếp xúc. Nguyên nhân bỏng bao gồm nhiệt, dòng điện, hóa chất, bức xạ.
Độ sâu của vết bỏng chia thành 4 mức độ: bỏng độ I (bỏng bề mặt của da), bỏng độ II (bỏng biểu bì và một phần của trung bì), bỏng độ III (tổn thương toàn bộ lớp da) và bỏng độ IV (bỏng sâu đến lớp dưới da). Bác sĩ đặc biệt nhấn mạnh, bỏng độ IV có thể tổn thương đến cơ và xương.
Độ sâu của bỏng có thể thay đổi theo thời gian, do đó việc đánh giá lại tổn thương bỏng sau 24 - 72 giờ là cần thiết.

Sơ cứu vết thương bỏng đúng cách
Theo hướng dẫn của BS.CK2 Trần Đoàn Đạo, khi bị bỏng, cần lập tức loại trừ tiếp xúc với tác nhân gây bỏng, ngăn chặn tiến triển bỏng bằng cách cởi bỏ quần áo bị cháy và đồ trang sức siết bó.
Việc làm mát vùng bỏng vô cùng quan trọng và cần thiết. Hãy ngâm rửa vùng cơ thể bị bỏng bằng nước mát càng sớm càng tốt (tốt nhất trong vòng 30 phút kể từ khi bị bỏng). Nhiệt độ nước trong khoảng 16 - 18 độ C, thời gian ngâm rửa từ 20 - 30 phút. Nếu vùng bỏng có diện tích lớn, sau khi đắp nước mát, cần chú ý giữ ấm cơ thể, tránh hạ thân nhiệt. Tuyệt đối không đắp nước đá lên vùng bị bỏng.
Vết thương bỏng nông thường khiến bệnh nhân đau nhiều, do đó cần giảm đau, ngoài ra cần ngăn ngừa uốn ván, bù nước và điện giải tùy theo tình trạng và diện tích vết bỏng.
Che phủ tạm thời vết bỏng bằng các vật liệu sạch để ngăn ngừa nhiễm bẩn vết bỏng, đồng thời cũng có tác dụng giảm đau. Nên kê cao, nâng cao vùng bị bỏng.
Sau khi sơ cứu, nên đưa bệnh nhân đến cơ sở y tế gần nhất để được thăm khám và xử trí phù hợp. WHO khuyến cáo nạn nhân nên nhập viện ở các đơn vị bỏng, khoa bỏng hoặc trung tâm bỏng nếu:
- Người lớn bỏng diện tích > 15%
- Trẻ em bỏng diện tích > 10%
- Bỏng ở trẻ nhỏ, người già, người ốm yếu
- Bất kỳ bỏng sâu (độ III)
- Bỏng ở những vùng đặc biệt: mặt, tay, chân, tầng sinh môn
- Bỏng sâu (độ III) ở chi hay bỏng chu vi vùng ngực, bụng
- Tổn thương do hít
- Chấn thương kèm theo hoặc bệnh nhân có các bệnh mạn tính kèm theo như đái tháo đường, cao huyết áp...
Bài viết có hữu ích với bạn?
Có thể bạn quan tâm
Đăng ký nhận bản tin sức khoẻ
Để chủ động bảo vệ bản thân và gia đình
Đăng ký nhận bản tin sức khoẻ để chủ động bảo vệ bản thân và gia đình