Chuyên gia nói gì về tính ứng dụng của siêu âm trị liệu?
Trong bài viết dưới đây BS.CK2 Huỳnh Tấn Vũ sẽ đã chia sẻ đến bạn đọc những thông tin hữu ích về tính ứng dụng, cũng như các phương pháp điều trị siêu âm trị liệu.
1. Siêu âm là gì?
Sóng âm tạo ra do quá trình lan truyền giao động trong môi trường đàn hồi dưới dạng sóng dọc (phương dao động của các phần tử trong môi trường đàn hồi trùng với phương truyền của sóng).
Các âm có tần số trong khoảng 16 - 20.000Hz, tai người có thể nghe được gọi là âm thanh.
- Các âm có tần số dưới 16Hz, tai người không nghe được thì gọi là hạ âm.
- Các âm có tần số trên 20.000Hz, tai người cũng không nghe được thì gọi là siêu âm.
2. Ứng dụng của siêu âm trong điều trị
Trong các khoa Vật lý trị liệu, siêu âm được sử dụng trong điều trị có công suất từ 0,1 - 3W/cm2. Khi tác động lên tổ chức, chúng gây ra 3 hiệu ứng: hiệu ứng cơ học, hiệu ứng hóa học và hiệu ứng nhiệt. Từ các hiệu ứng cơ bản trên, siêu âm có các tác dụng sau:
- Tăng tuần hoàn máu cục bộ do tăng nhiệt độ, tăng tính thấm của mạch máu và tổ chức.
- Giãn cơ do kích thích trực tiếp của siêu âm lên các cảm thụ thần kinh.
- Tăng tính thấm của màng tế bào, tăng tính khuếch tán và thẩm thấu qua màng do tăng giao động của các phần tử và biến đổi áp suất luân phiên giữa các vùng tổ chức. Do đó siêu âm có tác dụng làm tăng hấp thu dịch nề, tăng trao đổi chất, tăng dinh dưỡng và tái sinh tổ chức.
- Giảm đau do tác dụng trực tiếp lên cảm thụ thần kinh.
3. Các phương pháp điều trị bằng siêu âm
Phương pháp thứ nhất là siêu âm tiếp xúc trực tiếp với da bằng cách đặt đầu phát siêu âm tiếp xúc trực tiếp với da. Không khí có hệ số hấp thu siêu âm rất lớn nên chỉ cần một lớp không khí mỏng ngăn cách giữa đầu phát siêu âm với da cũng hấp thu gần hoàn toàn siêu âm.
Vì vậy, thường dùng chất gel, dầu, vaselin... làm chất trung gian giữa đầu phát siêu âm và da để triệt tiêu lớp không khí giữa đầu phát và da. Kỹ thuật tiếp xúc trực tiếp đơn giản, dễ làm, thường được dùng ở những vùng bề mặt da tương đối phẳng, dễ tiếp xúc.
Phương pháp thứ hai là siêu âm qua nước (nước là môi trường dẫn truyền âm tốt). Sử dụng thùng, chậu hay bể đựng nước sạch có nhiệt độ thích hợp, bên cạnh đó bộ phận điều trị và đầu phát siêu âm đều phải ngập trong nước. Đầu phát siêu âm để vuông góc với mặt da vùng điều trị, cách mặt da khoảng 1 - 5cm.
Siêu âm qua nước có ưu điểm là tận dụng năng lượng siêu âm. Tuy nhiên, vì kỹ thuật phức tạp nên thường chỉ sử dụng cho những vùng điều trị không bằng phẳng, phải sử dụng kỹ thuật tiếp xúc trực tiếp khó khăn như các ngón tay, ngón chân, khớp cổ tay, cổ chân.
Phương pháp thứ ba là siêu âm dẫn thuốc. Dưới tác dụng của siêu âm tạo nên các vùng có áp suất thay đổi tuần hoàn trong tổ chức, do đó làm tăng tính thấm và tính khuếch tán của các chất qua các màng sinh học.
Vì vậy, có thể pha các thuốc vào mỡ hoặc dầu làm môi trường trung gian giữa đầu phát và da. Dưới tác dụng của siêu âm, thuốc được “đẩy” vào da tại vùng điều trị. Các thuốc thường dùng là mỡ hydrocortisol, mỡ kháng sinh, mỡ profenid, salicylat...
4. Chỉ định và chống chỉ định siêu âm trị liệu
a. Chỉ định
- Chỉ định trong các bệnh co thắt cơ do thần kinh: Co thắt phế quản như hen phế quản, viêm phế quản co thắt, điều trị vào vùng liên sống bả; Co thắt các mạch máu ngoại vi: hội chứng Reynaud; Co thắt cơ do đau, lạnh; Đau do phản xạ thần kinh, viêm dây thần kinh.
- Các bệnh có nguyên nhân giảm dinh dưỡng chuyển hóa: Các chấn thương sau 3 ngày, các vùng sẹo xấu kém nuôi dưỡng; Các vùng sưng nề do chấn thương giai đoạn hấp thu dịch nề, do các ổ viêm cũ.
- Làm mềm sẹo.
- Siêu âm dẫn thuốc: Dưới tác dụng của siêu âm làm tăng tính thấm và khuếch tán của các ion qua các màng bán thấm. Người ta pha các thuốc vào chất tiếp xúc giữa đầu phát siêu âm và da rồi dùng siêu âm để đưa thuốc vào tại chỗ. Các ion thuốc được đẩy vào và tích lũy lại ở biểu bì và khuếch tán dần vào cơ thể giống như làm điện di ion thuốc bằng dòng điện một chiều. Các thuốc thường dùng là mỡ hydrocortisol, mỡ nọc rắn, mỡ profenid, mỡ kháng sinh...
- Siêu âm tạo khí dung trong điều trị các bệnh mũi, họng, đường hô hấp.
b. Chống chỉ định
- Các vùng không được điều trị bằng siêu âm: não, tủy sống, cơ quan sinh dục, thai nhi.
- Vùng điều trị có mang các vật kim loại hoặc vật rắn (đinh, nẹp vít...).
- Các khối u (cả u lành và u ác tính).
- Giãn tĩnh mạch và viêm tắc động mạch, viêm tắc tĩnh mạch.
- Các vùng đang chảy máu và có nguy cơ chảy máu như dạ con thời kỳ kinh nguyệt, chảy máu dạ dày, các vết thương mới, các chấn thương có tụ máu...
- Các ổ viêm nhiễm khuẩn vì có thể làm vi khuẩn lan rộng.
- Giãn phế quản: không điều trị vào vùng liên sống - bả.
- Các chấn thương mới trong 3 ngày đầu…
5. Chế độ siêu âm và liều điều trị
Đối với chế độ siêu âm liên tục, siêu âm được phát liên tục với cường độ không đổi trong suốt thời gian điều trị, gây hiệu ứng nhiệt độ cao. Vì vậy thường phải dùng cường độ siêu âm thấp, điều này hạn chế tác dụng của hiệu ứng cơ học và hóa học.
Chế độ siêu âm xung là siêu âm không phát liên tục mà phát ngắt quãng trong thời gian điều trị. Vì vậy, năng lượng trung bình của siêu âm theo thời gian thấp. Ví dụ, xung 1:5 (1 giây có siêu âm, 5 giây không có siêu âm) thì liều trung bình chỉ bằng 20% chế độ liên tục; Xung 1:10 thì liều trung bình chỉ bằng 10% chế độ liên tục.
Với chế độ siêu âm xung, cường độ siêu âm có thể cao nhưng liều trung bình lại thấp nên tăng nhiệt độ ít và phát huy được tác dụng của hiệu ứng cơ học và hóa học. Chế độ siêu âm xung được sử dụng rộng rãi trong điều trị hiện nay.
Cường độ siêu âm là năng lượng siêu âm truyền qua một đơn vị diện tích môi trường (W/cm2), còn công suất siêu âm là tích của cường độ siêu âm với vùng bức xạ có hiệu lực điều trị (W).
Ví dụ, dùng đầu phát có diện tích tính bằng 1cm2 với cường độ 1W/cm2 thì công suất là 1cm2 x 1W/cm2 = 1W. Nếu dùng đầu phát có diện tích 5cm2 với cường độ 1W/cm2 thì công xuất là 5cm2 x 1W/cm2 = 5W.
Liều điều trị siêu âm cần được điều chỉnh dựa vào các yếu tố:
- Tần số siêu âm: Siêu âm có tần số càng cao thì năng lượng càng lớn.
- Cùng một thời gian điều trị, cùng một cường độ siêu âm thì chế độ siêu âm liên tục cho liều lớn hơn chế độ xung.
- Thời gian điều trị càng dài thì liều tác dụng càng lớn.
- Cùng thời gian, cùng cường độ siêu âm, vùng điều trị càng nhỏ thì chịu liều tác dụng càng lớn. Chọn liều điều trị cần lưu ý đến tính chất vùng điều trị, loại bệnh cần điều trị.
Lưu ý: Với chế độ siêu âm liên tục, cường độ siêu âm không nên vượt quá 0,6W/cm2. Với chế độ siêu âm xung, có thể sử dụng các liều: < 0, 5W/cm2 (liều nhẹ); 0,5 - 1,2W/cm2 (liều trung bình); 1,2 - 3W/cm2 (liều mạnh).
Bên cạnh đó, một đợt điều trị thông thường là 10 - 15 lần, 1 lần/ngày. Các trường hợp bệnh mạn tính, có thể điều trị cách quãng 2 - 3 lần/tuần.
Bài viết có hữu ích với bạn?
Đăng ký nhận bản tin sức khoẻ
Để chủ động bảo vệ bản thân và gia đình
Đăng ký nhận bản tin sức khoẻ để chủ động bảo vệ bản thân và gia đình