Hotline 24/7
08983-08983

Công dụng và cách dùng cây xạ đen

Cây xạ đen được người Mường gọi là “cây ung thư” và đây cũng là lý do thảo dược này được nhiều người biết đến. Ngoài ra, xạ đen còn có công dụng kháng virus, kháng nấm, giải độc gan, cầm máu vết thương…

I. Tổng quan về cây xạ đen

Tên thường gọi: Xạ đen

Tên gọi khác: Dót, xạ đen cuống, xạ cái (dân tộc Mường), cây ung thư (Mường), duồng khụ (Mường), dây gối Ấn Độ, dây gối bắc, bách giải, đồng triều, bạch vạn hoa, cây quả nâu.

Tên khoa học: Ehretia asperula Zoll. Et Moritzi - thuộc họ Vòi voi (Boraginaceae) hoặc Celastrus hindsii Benth - thuộc họ Dây gối (Celastraceae). Đây là 2 tên khoa học của xạ đen gây tranh cãi nhiều nhất, sau đây là lược sử hình thành tên khoa học của loài thảo dược này:

Đến giữa những năm 80 của thế kỷ trước, giáo sư Lê Thế Trung (Viện Quân y 103) đã chỉ đạo điều tra 14 cây thuốc nam mà dân gian cho là có tác dụng trị bệnh ung thư. Trong đó, có cây xạ đen với ký hiệu K10. Theo các sách phân loại thực vật trước đây, loài cây này có tên Việt Nam là “Dây gối Ấn Độ” hoặc “Dây gối bắc”, tên khoa học của cây này là Celastrus hindssi Benth., thuộc họ Dây gối (Celastraceae).

Tuy nhiên, đến năm 2006 một số nghiên cứu của Đại học Dược Hà Nội kết hợp với các nhà sinh thái học của Viện Sinh thái và Tài Nguyên sinh vật đã khẳng định lại rằng cây xạ đen Hòa Bình có tên khoa học là Ehretia L., thuộc chi Ehretia, họ Vòi voi (Boraginaceae).

Năm 2007, Nguyễn Thị Vân Khanh và cộng sự đã đính chính lại tên khoa học cho cây này là Ehretia asperula Zoll. & Moritzi và theo Hoàng Quỳnh Hoa (2010) đã khẳng định tên khoa học cây xạ đen là Ehretia asperula Zoll. & Moritzi, thuộc họ Vòi voi (Boraginaceae).

Năm 2017, các nhà nghiên cứu thuộc Viện Nghiên cứu Hệ gen đã xác đinh trình tự DNA của cây xạ đen thu hái tại các vùng khác nhau của tỉnh Hòa Bình.

Lý giải sự hình thành các tên: Xạ đen cũng bắt nguồn từ dân tộc Mường, khi mà người Mường còn chưa biết bệnh ung thư là gì thì mỗi lúc thấy ốm yếu, mệt mỏi, vàng da thì họ đều hái loài cây này về làm thuốc. Theo tiếng Mường thì gan đọc là “xạ”, loài cây này khi cắt sẽ chảy ra một lớp nhựa đen, vì thế cái tên “xạ đen” ra đời.

Ngoài ra, cây xạ đen còn được gọi là cây “Duồng khụ” - ý nói đây là một cây thuốc rất tốt của người Mường. Trước đây, cụ Bùi Thị Bẻn, dân tộc Mường, ở huyện Kim Bôi, Hoà Bình, là mẹ của Lương y Đinh Thị Phiển đã dùng cây xạ đen, còn gọi là xạ đen cuống để chữa bệnh vô sinh. Nay bà Phiển là người thừa kế bài thuốc xạ đen của mế Hậu để chữa bệnh ung thư. Do đó mà cây này còn có tên là cây ung thư.

alobacsi Cây xạ đen

1. Nhận biết cây xạ đen

Xạ đen là cây dây leo thân gỗ mọc thành bụi, dài trung bình 3-5 m. Cành cây tròn, lúc non có màu xám nhạt, không có lông, sau chuyển sang màu nâu, có lông, về sau có màu xanh. Cuống lá 0,6-2 cm, có nốt sần, phiến lá có hình elip hoặc gần giống như elip, kích thước phiến lá 3-15 × 2-8 cm, dai; chóp lá tù hay có mũi nhọn, gốc lá tròn hay tù; gân bên gồm 6-7 đôi, lõm ở mặt dưới; không có lông hoặc chỉ có một lớp lông tơ mỏng trong các nách gân lá, rìa lá không có phiến răng cưa khi trưởng thành. Lá mọc đơn cách.

Cụm hoa xim dạng ngù kép, có màu nâu nhạt, nằm trên ngọn hay nách lá, khi trải ra có thể rộng tới 10-15cm, các cụm hoa nằm ngang nhau và có chiều rộng khoảng 4-6 cm, có lông tơ mịn. Hoa mẫu 5, tràng hoa màu trắng hoặc màu hồng nhạt, có hình dạng như chiếc phễu 3-5mm. Đài hoa dài 1,5-2,5mm, chia 5 thùy, có lông mịn. Thùy hoa có hình tam giác 2-2.5 mm, thường mảnh, dài hơn ống tràng hoa. Nhị có 5 cái, chỉ nhị 3,5-6mm, chèn vào phần trên của đế, bao phấn 1 mm. Bầu không lông.

Quả hạch có màu đỏ, màu hồng, màu vàng hoặc màu vàng cam, có đường kính 3-4 mm. Mỗi quả có 4 hạch, mỗi hạch chứa một hạt. Vỏ quả trong được phân chia khi trưởng thành thành các hạt cứng của quả.

2. Thành phần dược chất của xạ đen

Cành và lá của xạ đen chứa các dược chất: 3beta-acetoxyolean-12-en-28al, alpha/beta-amyrin acetat, stigmasterol, squalon, daucosterol, alpha-amyrin, bauerenol, oleanolic acid acetat, ehretiosid A1-A3, astragalin, acid rosmarinic, methyl rosmarinat, rutin, kaempferol 3-rutinoside, rosmarinic acid, lithospermic acid, α-stigmasterol, beta-stigmasterol, glucosyringic acid, celasdin-A, B, C, maytenfolone-A, loranthol, lupenone, friedelinol, emarginatine-E, diphenylpropane, macrocyclic lactone, quinoflavan…

Các nhóm dược chất đại diện trong xạ đen gồm: flavonoid, quinon, saponin triterpenoid, phenolic…

alobacsi hoa của cây xạ đen

alobacsi quả của cây xạ đen

3. Phân bố, thu hái và chế biến cây xạ đen

Xạ đen mọc ở nơi ẩm ướt và có nhiều ánh sáng, ven đường, ven rừng và các nơi có nhiều cây bụi. Xạ đen là loài cây thích hợp khí hậu nhiệt đới gió mùa, có mùa đông lạnh. Xạ đen thích hợp với những vùng có nhiệt độ bình quân trong năm khoảng 22- 23 độ C, thịt trung bình, đất hơi chua đến trung tính nhưng yêu cầu phải thoát nước tốt.

Vùng nào mà cây ô rô sinh trưởng tốt thì xạ đen sẽ sống tốt. Tại Việt Nam, xạ đen phân bố chủ yếu ở các tỉnh Hòa Bình, Hà Nội, Quảng Bình, Phú Thọ, Quảng Ninh, Hà Nam, Ninh Bình, Thừa Thiên - Huế và trải dài rải rác đến Gia Lai. Ở nước khác, xạ đen sinh trưởng tốt ở Ấn Độ, Indonesia, Malaysia và Trung Quốc.

Nếu mùa hoa tháng 3 - 5 thì ra quả tháng 8 - 12, nếu mùa hoa vào tháng 11, mùa quả vào tháng 1-2 của năm kế tiếp.

Bộ phận dùng của xạ đen bao gồm toàn bộ các phần nằm trên mặt đất.

II. Công dụng của xạ đen

1. Công dụng của xạ đen theo đông y cổ truyền

Xạ đen Ehretia asperula có tác dụng thông kinh, lợi tiểu, tiêu độc.

2. Công dụng của xạ đen theo đông y hiện đại

Các tác dụng của xạ đen đã nghiên cứu

+ Chống ung thư: Xạ đen có khả năng tiêu diệt tế bào ung thư gan (dòng Hep-G2, HEPA-2B), ung thư vú (dòng MCF-7), và ung thư cổ tử cung (dòng HeLa). Cá tác dụng này do 4 hoạt chất là rosmarinic acid, methyl caffeate, maytenfolone - A và oresbiusin B trong xạ đen mang lại. Ngoài ra, xạ đen cũng ức chế nhiều dòng tế bào ung thư biểu mô (nhất là ung thư biểu mô vòm họng và đại trực tràng) và các ung thư phụ thuộc estrogen. Tác dụng chống ung thư trung bình đến nhẹ trong các dòng ung thư phổi.

Nghiên cứu cho thấy, xạ đen có các hoạt chất flavonoid, quinon (có tác dụng phòng chống ung thư và làm cho tế bào ung thư hóa lỏng dễ tiêu), hợp chất saponin triterpenoid (có tác dụng chống nhiễm khuẩn).

+ Kháng virus HIV: hợp chất celasdin-B được xác định là có hoạt tính kháng virus HIVAIDS ở các tế bào bạch cầu H9.

+ Kháng virus và nấm: xạ đen chứa hoạt chất hydrazine carboxamide, đây là một chất ức chế sự phát triển của một số chủng vi khuẩn, như Staphylococcus aureus, Klebsiella pneumoniae, Escherichia

coli, Pseudomonas aeruginosa và một số loài nấm, như Aspergillus niger ( gây sốt, ho, đau ngực hoặc khó thở), Aspergillus flavus (gây bệnh da liễu, đầu và tai), Penicillium citrinum (gây ngộ độc thực phẩm), Candida albicans (gây bệnh ở nhiều cơ quan) và Mon Damascus purpereus.

+ Chống oxy hóa: các hợp chất flavonoid trong xạ đen cũng là chất chống oxy hóa, thu nhặt gốc tự do, cung cấp khả năng bảo vệ chống lại bệnh tim mạch, ung thư và thoái hóa tế bào, điều này cũng giúp cải thiện tuổi của các cơ quan trong cơ thể.

Các tác dụng của xạ đen dùng theo kinh nghiệm

Từ xa xưa người Mường đã đánh giá rất cao tác dụng của cây xạ đen, cây thuốc này được liệt kê là một cây thuốc tốt nhất trong các cây họ xạ, và thường được sử dụng để điều trị các bệnh sau:

+ Điều trị u bướu, mụn nhọt, ung thũng.

+ Giải độc gan, tăng cường chức năng gan, hỗ trợ điều trị viêm gan, vàng da.

+ Dùng làm thuốc chống viêm kháng khuẩn cho các bệnh nhân mắc bệnh viêm nhiễm.

+ Dùng để cầm máu vết thương (bị chảy máu chỉ cần nhai lá xạ đen đắp vào vết thương là cầm được máu ngay, 2 ngày sau viết thương sẽ tự lành)

Dân tộc Mường thường sử dụng loài xạ đen Ehretia asperula này để làm thuốc trị vô sinh, trị các chứng viêm da do nhiệt, mụn nhọt, và một số bệnh da liễu khác. Loài xạ đen này vẫn được lưu truyền như một phương thuốc chữa ung thư.

Lá, quả, thân của cây xạ đen Ehretia asperula được sử dụng làm thuốc chống viêm, ho, ngứa, sưng tấy, tiêu chảy, kiết lỵ, sốt, suy nhược và giang mai.

III. Cách dùng - liều dùng xạ đen

1. Liều dùng: 20-30 gam khô.

2. Một số bài thuốc sử dụng xạ đen theo kinh nghiệm dân gian

+ Hỗ trợ điều trị ung thư: Lá và thân xạ đen 30g, Bạch hoa xà thiệt thảo 30g, Bán chi liên 15g, Xuyên tâm liên 25g. Các vị thuốc trước khi dùng nên được rửa sạch 1 lần, đun với 1,5 lít nước. Đun cạn còn khoảng 600ml nước uống sau bữa ăn khoảng 15 phút. Nên uống khi thuốc còn nóng để đạt hiệu quả điều trị cao nhất.

+ Hỗ trợ điều trị viêm gan: Thân và lá xạ đen 30g, Cà gai leo 30g, Mật nhân 10g. Mỗi ngày lấy các vị thuốc đem rửa sạch, rồi sắc với 1,2 lít nước, đun sôi, để sôi nhỏ lửa thêm khoảng 15 phút rồi dùng uống trong 2 tuần.

(Các bài thuốc trên chưa qua kiểm chứng khoa học, chỉ là kinh nghiệm của một số đồng bào miền núi. Đây là vị thuốc có tuổi đời khoa học còn chưa lâu. Việc điều trị cần dựa trên đánh giá của người thầy thuốc thông qua thăm khám trực tiếp và kết hợp các đặc tính cá thể hóa của người bệnh)

3. Đối với phụ nữ mang thai và cho con bú

Không dùng xạ đen cho phụ nữ mang thai hoặc đang cho con bú. Cần thận trọng khi dùng cho phụ nữ mang thai vì chưa có minh chứng khoa học về tính an toàn của thảo dược này đối với thai kỳ. Sản phụ không nên tự ý dùng thảo dược này khi chưa có chỉ định của thầy thuốc.

4. Đối với trẻ nhũ nhi

Hiện nay chưa ghi nhận tác dụng ngoại ý trên đối tượng trẻ nhũ nhi. Tuy nhiên, cần thận trọng khi dùng cho trẻ nhũ nhi vì chưa có minh chứng khoa học về tính an toàn của thảo dược này trên trẻ nhũ nhi, cần tham khảo ý kiến thầy thuốc có chuyên môn về lĩnh vực này trước khi dùng.

IV. Tác dụng phụ - thận trọng - tương tác và chống chỉ định của xạ đen

Không dùng xạ đen cho phụ nữ mang thai và cho con bú.

Người khỏe mạnh khi dùng quá liều xạ đen có thể gây hoa mắt, chóng mặt do hạ huyết áp.

Đối với một số cơ địa nhạy cảm, dùng xạ đen có thể gây ra triệu chứng buồn ngủ, ngủ gật, do đó cần lưu tâm khi dùng trên đối tượng cần tập trung cao vào công việc, tài xế, công nhân…

V. Bảo quản xạ đen

Cần làm khô thảo dược bằng máy sấy hoặc ánh nắng mặt trời, sau đó cho vào hủ thủy tinh, đậy kín, tránh ánh sáng. Có thể cho vào một viên vôi sống để hút ẩm. Nếu bạn không phải là thầy thuốc thì không nên lưu trữ thuốc tại nhà quá 10 ngày. Nếu bạn buộc phải lưu trữ thảo dược tại nhà lâu hơn, cần kiểm tra chúng hàng tuần, nếu phát hiện mối mọt, ẩm mốc, biến đổi màu sắc, mùi vị thì cần loại bỏ ngay.

BS Đoàn Quang Nguyên

Đối tác AloBacsi

Đăng ký nhận bản tin sức khoẻ

Để chủ động bảo vệ bản thân và gia đình

Đăng ký nhận bản tin sức khoẻ để chủ động bảo vệ bản thân và gia đình

hoàn toàn MIỄN PHÍ

Khám bệnh online

X