Cần biết uống thuốc lúc nào
Mỗi loại thuốc có đặc tính khác nhau được uống vào thời gian khác nhau. Hình minh họa
Thuốc nên uống vào lúc no (uống ngay sau khi ăn)
Một số kháng sinh kém bền với môi trường axit như ampicillin, erythromycin, lincomycin... nên uống vào lúc bụng no (nhờ thức ăn trung hòa axit ở dạ dày); nếu uống vào lúc bụng đói làm tăng khả năng phân hủy thuốc do môi trường có nhiều axit tại dạ dày.
Aspirin và các thuốc chống viêm không steroid (gọi tắt NSAID như diclofenac, ibuprofen...) nếu dùng dạng không bao bảo vệ niêm mạc dạ dày thì nên uống lúc bụng no để không hại dạ dày.
Thuốc nên uống lúc đói (uống trước khi ăn 1 giờ hoặc sau khi ăn 1-2 giờ)
Có khá nhiều thuốc kháng sinh nên uống lúc bụng đói vì giúp hấp thụ thuốc vào máu nhanh hơn để thuốc sớm cho tác dụng điều trị.
Còn thuốc được bào chế dạng bao tan ở ruột (như Aspirin pH8) hay dạng phóng thích dược chất kéo dài (như Adalate LP) nên uống lúc đói, tức để thuốc được đưa xuống ruột nhanh giúp màng bao viên thuốc không bị vỡ gây ảnh hưởng đến tác dụng thuốc.
Thuốc nên uống cùng với bữa ăn
Các thuốc tan nhiều trong dầu mỡ như vitamin A, D, E, K, kháng sinh kháng nấm griseofulvin nên uống cùng bữa ăn (ngay trước hoặc ngay sau cũng được) để nhờ chất béo của thức ăn thức uống giúp thuốc hấp thụ tốt hơn.
Thuốc trợ tiêu hóa bổ sung enzym tiêu hóa pancreatin (Festal, Neopeptine...) cũng nên uống cùng với bữa ăn (hoặc trước khi ăn 5-10 phút) để giúp tiêu hóa thức ăn tốt hơn.
Thuốc uống lúc nào tùy thuộc tính chất từng loại thuốc
Vì mỗi loại thuốc có bản chất khác nhau nên không có quy luật chung về uống thuốc vào lúc nào cho tất cả loại thuốc, cũng như không có tài liệu nào trình bày đầy đủ cách uống thuốc cho mọi loại thuốc.
Cách dùng thuốc lúc nào sẽ tùy sự hiểu biết về dược động học, dược lực học của từng loại thuốc cụ thể (thông thường bản hướng dẫn sử dụng thuốc có đề cập nhưng có khi không nói đến).
Ví dụ thứ nhất cho thấy uống thuốc lúc nào tùy thuộc vào tác dụng của thuốc. Domperidon (Motilium-M) là thuốc có tác dụng kích thích nhu động của dạ dày, làm tăng trương lực cơ thắt tâm vị và tăng biên độ mở rộng của cơ thắt môn vị sau bữa ăn; cho nên domperidon được dùng trị chứng khó tiêu đầy bụng, no lâu do thức ăn chậm xuống ruột.
Cần uống thuốc domperidon 15-30 phút trước bữa ăn nhằm để thuốc có đủ thời gian hấp thụ vào máu cho tác dụng trị chứng khó tiêu do dạ dày hoạt động không tốt.
Bởi vì sau khi uống doperidom khoảng 30 phút thì thuốc mới vào được trong máu và đạt được nồng độ đỉnh trong huyết tương, tức khi đó thuốc mới có tác dụng tốt nhất.
Nếu ta uống thuốc sau bữa ăn và thời gian uống sau bữa ăn lại quá dài, domperidon không kịp phát huy tác dụng trị chứng khó tiêu đã phát sinh. Ví dụ thứ hai cho thấy uống thuốc lúc nào không chỉ tùy thuộc vào tác dụng của thuốc mà còn tùy thuộc tác dụng phụ có hại của thuốc.
Glimepirid là thuốc trị đái tháo đường type 2 theo cơ chế kích thích tế bào bêta của tuyến tụy tiết insulin giúp hạ đường huyết nếu có sự tăng đường huyết. Đối với người bệnh đái tháo đường type 2, thời điểm tăng đường huyết dễ xảy ra sau bữa ăn.
Vì vậy, nên uống thuốc glimepirid ngay trước bữa ăn sáng hoặc bữa ăn chính đầu tiên trong ngày. Uống ngay trước bữa ăn để glimepirid có thời gian cho tác dụng đúng lúc đường huyết bắt đầu tăng do bữa ăn.
Còn metformin cũng là thuốc trị đái tháo đường type 2 nhưng nên uống metformin sau bữa ăn vì thuốc này có tác dụng phụ, gây rối loạn tiêu hóa (buồn nôn, nôn, đau bụng, tiêu chảy). Nếu uống thuốc này lúc bụng trống dễ bị rối loạn tiêu hóa hơn.
Tóm lại, để biết lúc nào uống thuốc tốt nhất, người sử dụng thuốc nên hỏi bác sĩ kê đơn chỉ định thuốc, dược sĩ nơi mua thuốc, nhất là đọc kỹ bản hướng dẫn sử dụng thuốc.
Theo PGS.TS Nguyễn Hữu Đức - Tuổi trẻĐại học Y dược TPHCM
Bài viết có hữu ích với bạn?
- Trang chủ
- Tin y tế
Đăng ký nhận bản tin sức khoẻ
Để chủ động bảo vệ bản thân và gia đình
Đăng ký nhận bản tin sức khoẻ để chủ động bảo vệ bản thân và gia đình