Khi nào dùng thuốc hạ mỡ máu?
2 loại tăng lipid huyết
Khi mỡ máu cao, chất béo thừa trong máu có thể sẽ đóng cặn trên thành động mạch, khiến lòng động mạch ngày càng hẹp đi, dẫn đến hiện tượng gọi là xơ vữa động mạch hoặc huyết khối tắc mạch. Từ đó sẽ gây bệnh lý ở tim, gọi là bệnh tim - mạch vành (thiếu máu cơ tim, nhồi máu cơ tim). Nếu xảy ra ở não thì gọi là tai biến mạch máu não (đột quỵ, nhũn não, xuất huyết não). Có 2 loại tăng lipid huyết:
- Tăng lipid huyết tiên phát: Liên quan đến di truyền, tức là người bệnh bẩm sinh có sự khiếm khuyết về gen, dẫn đến tăng lipid huyết.
- Tăng lipid huyết thứ phát: Do chế độ ăn uống (ăn quá nhiều mỡ động vật, uống quá nhiều rượu), do bị bệnh (tiểu đường kiểm soát kém, suy giáp, suy thận), do thuốc (thuốc lợi tiểu thiazid, glucocorticoid, chẹn beta, thuốc trị mụn trứng cá isotretionoid...).
Để biết có bị chứng tăng lipid huyết hay không, cần phải làm xét nghiệm máu đo 4 thành phần lipid: cholesterol toàn phần, triglyceride, cholesterol trong LDL (viết tắt LDL-c, là loại cholesterol xấu, vì vận chuyển cholesterol vào trong máu, lắng đọng vào thành mạch máu và hình thành mảng xơ vữa mạch máu); cholesterol trong HDL (viết tắt HDL-c, là loại cholesterol tốt, vì mang cholesterol dư thừa ứ đọng từ trong thành mạch máu trở về gan). Kết quả xét nghiệm sẽ cho mỗi thành phần lipid một trị số.
Nếu trị số kết quả thấp hơn trị số mong muốn (hay còn gọi là mức đích) đối với 3 thành phần cholesterol toàn phần, triglyceride, LDL-c và cao hơn đối với HDL-c thì không bị chứng tăng lipid huyết, hoặc bị nhưng đã dùng thuốc chữa khỏi.
Nếu trị số kết quả nằm trong khoảng giới hạn thì cần cảnh giác. Nếu trị số kết quả cao hơn mức báo động (còn gọi là nguy cơ cao, riêng đối với HDL-c trị số kết quả thấp hơn) thì đã bị chứng tăng lipid huyết và cần phải điều trị bằng thuốc.
Khi nào dùng thuốc hạ lipid huyết?
Việc dùng thuốc trị tăng lipid huyết (hay thuốc hạ mỡ máu) hoàn toàn tùy thuộc vào bác sĩ khám và điều trị cho bạn. Bác sĩ chỉ định làm những xét nghiệm đầy đủ để đánh giá tình trạng mỡ trong máu.
Như nói ở trên, trong bốn thành phần xét nghiệm có đến ba thành phần dư thừa sẽ gây hại là cholesterol toàn phần, LDL-cholesterol và triglyceride; chỉ có một thành phần giúp bảo vệ là HDL- cholesterol.
Bác sĩ xem kết quả xét nghiệm sẽ lưu ý sự cân bằng giữa thành phần bảo vệ HDL-c và thành phần gây hại LDL-c. Nếu thành phần gây hại cao (trị số xét nghiệm đo được cao hơn ngưỡng giới hạn trên) và thành phần bảo vệ thấp (trị số xét nghiệm đo được thấp hơn ngưỡng giới hạn dưới) thì việc điều trị bằng thuốc tình trạng rối loạn mỡ máu không thể chậm trễ.
Khi có sự bất thường ở bất cứ thành phần mỡ máu nào thì đó đã là rối loạn mỡ máu. Ngoài ra, cũng cần lưu ý đến các yếu tố liên quan như: tuổi, bệnh tim mạch, cao huyết áp hay tiểu đường đi kèm…
Sau khi xem xét, cân nhấc các trị số xét nghiệm, bác sĩ sẽ lựa chọn để chỉ định dùng loại thuốc thích hợp nhất. Phải có sự lựa chọn vì hiện có 4 nhóm thuốc trị tăng lipid huyết chính (mỗi nhóm gồm cả chục thuốc) và nhiều thuốc mới lưu hành.
Chính nhờ hiểu rõ quá trình vận chuyển và chuyển hóa lipid trong cơ thể con người, người ta đã tìm ra các thuốc có những cơ chế tác động khác nhau để hạ lipid huyết khi các thành phần lipid đó tăng cao trong máu. Đặc biệt, ngoài dùng thuốc, còn kết hợp với chế độ dinh dưỡng và vận động rèn luyện thân thể thích hợp để đạt hiệu quả cao hơn.
Các yếu tố ảnh hưởng đến mỡ máu
- Nếu thức ăn có nhiều cholesterol ngoại sinh từ thực phẩm, đặc biệt chất béo bão hòa (mỡ động vật) sẽ có nguy cơ làm tăng nồng độ cholesterol trong máu. Riêng việc ăn nhiều chất béo bão hòa sẽ làm tăng lipid ở gan, là nguyên liệu gan dùng tổng hợp cholesterol, dẫn đến tăng cholesterol trong máu (tăng cholesterol nội sinh).
- Khi thức ăn có nhiều acid béo không bão hòa (dầu thực vật như dầu mè, dầu đậu nành...) hoặc rau cải có nhiều xơ sợi sẽ làm giảm nồng độ cholesterol trong máu. Cơ chế làm hạ lipid huyết của acid béo không bão hòa hiện còn chưa rõ, nhưng chất xơ sợi của rau cải hoặc bột lúa mạch sẽ làm acid mật không tái hấp thu từ ruột vào máu; Thiếu acid mật, gan sẽ dùng cholesterol tạo acid mật, do đó làm giảm cholesterol trong máu xuống.
- Phụ nữ ở tuổi mãn kinh dễ bị tăng mỡ máu vì cơ thể không còn sản xuất hormone sinh dục nữ estrogen, mà estrogen giúp làm giảm LDL-c và tăng HDL-c.
- Người ít vận động dẫn đến béo phì, lại thêm hút thuốc lá, sẽ bị giảm HDL-c là cholesterol tốt. Người siêng tập thể dục, giảm cân sẽ giúp tăng HDL-c trong máu.
- Khi bị tắc mật do bệnh gan hoặc bị bệnh tiểu đường không điều trị sẽ làm lượng cholesterol trong máu tăng.
Bài viết có hữu ích với bạn?
- Trang chủ
- Tin y tế
Đăng ký nhận bản tin sức khoẻ
Để chủ động bảo vệ bản thân và gia đình
Đăng ký nhận bản tin sức khoẻ để chủ động bảo vệ bản thân và gia đình