Liệu hệ quả kinh tế sẽ là gì nếu Trung Quốc đi xa hơn và quyết định đóng cửa toàn bộ khu vực bên trong cái gọi là “đường chín đoạn” mà nước này tự vẽ ra?
Sau việc đe dọa thiết lập vùng nhận diện phòng không ở Biển Đông, liệu hệ quả kinh tế sẽ là gì nếu Trung Quốc đi xa hơn và quyết định đóng cửa toàn bộ khu vực bên trong cái gọi là “đường chín đoạn” mà nước này tự vẽ phứa ra? National Interest đặt câu hỏi.
Chiến đấu cơ Trung Quốc hoạt động trái phép ở khu vực quần đảo Hoàng Sa Trung
Quốc đã phát hành clip âm nhạc, các bài bình luận và rất nhiều chiến
dịch tuyên truyền khác. đồng thời tàu hải quân của quân đội nước này
khai hỏa để đáp trả phán quyết của tòa án quốc tế về vụ kiện Biển Đông
mà Trung Quốc vẫn lên án là “vô hiệu lực”.
Nhưng sau việc đe dọa thiết lập vùng nhận diện phòng không ở Biển
Đông, liệu hệ quả kinh tế sẽ là gì nếu Trung Quốc đi xa hơn và quyết
định đóng cửa toàn bộ khu vực bên trong cái gọi là “đường chín đoạn” mà
nước này tự vẽ ra?
Dựa trên bản đồ năm 1947 của chính quyền Tưởng Giới Thạch, “đường
lưỡi bò” của Trung Quốc choán gần 90% diện tích Biển Đông. Nó tương
đương với diện tích của Mexico, mở rộng hơn 1.000 hải lý từ bờ biển
Trung Quốc và bao gồm cả phần các khu vực lãnh hải thuộc chủ quyền của
các nước Malaysia, Philippines, và Việt Nam. Trong khi Trung Quốc là
nước hưởng lợi nhiều nhất từ việc tự do đi lại trong khu vực, thì nhiều
quốc gia khác cũng phụ thuộc vào những tuyến đường biển qua vùng biển
tranh chấp này như Nhật Bản, Hàn Quốc và Úc.
Theo ước tính mỗi năm có khoảng 5.000 tỷ USD hàng hóa vận chuyển qua
Biển Đông, chiếm hơn một nửa khối lượng thương mại hàng năm của thế giới
và ⅓ lượng giao thông hàng hải trên toàn thế giới. Dầu mỏ từ Ấn Độ
Dương vận chuyển qua eo biển Malacca, đi qua Biển Đông đến Đông Á nhiều
gấp 3 lần lượng dầu mỏ đi qua kênh đào Suez và gấp 15 lần lượng dầu đi
qua kênh đào Panama.
Theo chuyên gia Robert D.Kaplan, khoảng ⅔ nguồn cung cấp năng lượng
của Hàn Quốc, gần 60% nguồn cung năng lượng của Nhật Bản và Đài Loan và
80% lượng nhập khẩu dầu thô của Trung Quốc phải đi qua Biển Đông.
Đưỡng lưỡi bò phi pháp của Trung Quốc ở Biển Đông đã bị Tòa Trọng tài quốc tế bác bỏ
Các nhà phân tích ước tính chi phí thay đổi tuyến đường cho các tàu
chở dầu đi qua eo biển Lombok và phía đông của Philippines sẽ tốn phí
thêm khoảng 600 triệu USD/năm đối với Nhật Bản và 270 triệu USD/năm đối
với Hàn Quốc.
Phần
lớn hàng hóa của Úc di chuyển qua Biển Đông là để cập cảng Trung Quốc.
Nếu Trung Quốc cản trở các tuyến đường trên Biển Đông giữa Úc và các đối
tác thương mại khác, sẽ khiến các nước buộc phải thay đổi tuyến đường
cho khoảng 20 tỷ USD hàng hóa một năm.
Nguồn dự trữ dầu mỏ và khí đốt
Một lợi ích khác của Trung Quốc ở Biển Đông là tiềm năng to lớn về
dầu mỏ và khí đốt mà Kaplan vẫn miêu tả là “vịnh Ba Tư thứ hai”.
Trung
Quốc từng ngang nhiên hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng đặc
quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, gây ra một cuộc khủng hoảng
vào năm 2014
Cơ quan Thông tin năng lượng Mỹ ước tính rằng Biển Đông có trữ lượng
khoảng 11 tỷ thùng dầu, tương đương với tổng trữ lượng dầu của Mexico và
190 nghìn tỷ feet khối khí đốt tự nhiên, đáp ứng cho nhu cầu khí đốt
của Trung Quốc trong vòng 28 năm. Tổng công ty dầu khí viễn dương quốc
gia Trung Quốc đã đầu tư khoảng 20 tỷ USD nhằm nỗ lực chứng minh rằng
Biển Đông có trữ lượng nhiều hơn, vào khoảng 125 tỷ thùng dầu và 500
nghìn tỷ feet khối khí đốt tự nhiên.
Nếu những ước tính này chính xác và nếu các nguồn dự trữ này có khả
năng tái tạo như các cuộc tranh luận vẫn đang bàn cãi, thì Biển Đông có
thể sẽ có trữ lượng dầu lớn hơn bất kì nơi nào trên thế giới, kể cả Ả
rập Xê út.
Tuy nhiên, những nguồn dự trữ này lại nằm rất sâu dưới đáy biển, do
đó việc khai thác rất khó khăn và vô cùng tốn kém. Đối với nhu cầu năng
lượng của Trung Quốc, các nguồn thay thế rẻ hơn luôn sẵn có và đặc biệt
là nguồn dầu giá rẻ. Nhưng đối với Philippines và Việt Nam, việc mất
quyền tiếp cận đối với kho dự trữ dầu mỏ và khí đốt tiềm năng này sẽ ảnh
hưởng rất lớn về mặt kinh tế.
Quyền đánh bắt hải sản
Nguồn hải sản ven bờ biển Trung Quốc cạn kiệt do khai thác quá mức đã
buộc các tàu đánh bắt phải ra xa khơi hơn, về phía nam thuộc vùng biển
của Indonesia và gây ra nguy cơ xung đột ngày càng lớn.
Trong khi Trung Quốc vẫn đang tìm cách để đuổi các tàu đánh cá của
nước khác ra khỏi Biển Đông từ năm 2012, việc đóng cửa toàn bộ khu vực
sẽ gây thiệt hại rất lớn đối với Đông Nam Á. Đánh bắt hải sản chiếm gần
3% GDP của Indonesia và gần 2% của Malaysia, Philippines và Thái Lan.
Trung Quốc có sức mạnh mặc cả vì nước này là đối tác thương mại lớn
nhất của hầu hết các nền kinh tế ở ASEAN. Theo số liệu của ASEAN năm
2014, Trung Quốc chiếm hơn ⅕ lượng nhập khẩu từ Đông Nam Á, trong khi EU
chiếm ⅛ và Nhật Bản chiếm 1/10.
Trong khi các nhà phân tích như Malcolm Cook cho rằng Trung Quốc
không đủ sức để áp dụng chính sách bá quyền khu vực, ngoại trừ với các
nước như Lào, Campuchia và Myanmar, thì việc đóng cửa Biển Đông sẽ gây
thiệt hại lớn cho Đông Nam Á cũng như là ngăn trở lưu thông hàng hóa tới
các nền kinh tế lớn hơn như Nhật Bản, Hàn Quốc và Úc.
Cho dù khủng hoảng có leo thang thì hậu quả kinh tế gây tổn hại nhiều
nhất vẫn sẽ là sự sụp đổ thương mại ở một trong những khu vực cuối cùng
trên thế giới còn duy trì được sự năng động kinh tế. Thậm chí ngay với
Trung Quốc, nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, thì chi phí của việc đóng
cửa Biển Đông sẽ lớn hơn nhiều so với lợi ích từ việc biến Biển Đông
thành “ao nhà” của riêng nước này.
* Bài viết trên National Interest của tác giả Anthony Fensom là cố
vấn với hơn 10 năm kinh nghiệm cho các ngành tài chính và truyền thông ở
châu Á - Thái Bình Dương.
Theo Đặng Phương Thảo - VietTimes