Ngăn ngừa ung thư buồng trứng bằng ... uống thuốc tránh thai?
Ung thư buồng trứng là một trong những ung thư đường sinh dục nguy hiểm và thường gặp nhất ở phụ nữ, một nửa số phụ nữ được chẩn đoán không thể sống sót vượt quá năm năm.
- Ung thư buồng trứng là bệnh trong đó tế bào ác tính hoặc ung thư được tìm thấy trong buồng trứng. Buồng trứng là một trong hai hình quả hạnh nhân nhỏ, các cơ quan nằm trên mỗi bên của tử cung trứng hoặc các tế bào mầm và sản xuất kích thích tố nữ estrogen và progesterone. Ung thư phát triển khi các tế bào trong một phần của cơ thể (trong buồng trứng) bắt đầu phát triển ngoài tầm kiểm soát. Mặc dù có rất nhiều loại bệnh ung thư, tất cả đều bắt đầu bởi sự mất kiểm soát của các tế bào bất thường.
- Ung thư buồng trứng giai đoạn sớm thường không hiển thị bất kỳ dấu hiệu rõ ràng nào. Trong một số trường hợp, ung thư buồng trứng có thể gây ra các triệu chứng sớm. Tuy nhiên, hầu hết phụ nữ không có triệu chứng, ngay cả trong giai đoạn đầu. Các triệu chứng phổ biến nhất của ung thư buồng trứng bao gồm: Sút cân, đầy hơi thường xuyên; Đau bụng hoặc khung xương chậu; Ăn uống khó khăn hoặc cảm thấy đầy hơi một cách nhanh chóng.; Vấn đề tiết niệu, đi tiểu thường xuyên hơn bình thường.
- Nguyên nhân gây ung thư thư buồng trứng đến nay vẫn chưa được xác định rõ nhưng có thể xác định những yếu tố nguy cơ như: Sự thay đổi về gen di truyền, tiền sử gia đình có người bị ung thư buồng trứng (những người đã có mẹ, chị em gái hoặc con gái từng mắc thì có đến 5% nguy cơ mắc bệnh này).
- Độ tuổi. Ung thư buồng trứng thường gặp nhất ở phụ nữ sau mãn kinh. Nguy cơ mắc ung thư buồng trứng tăng lên theo tuổi sau tuổi 70. Hầu hết ung thư buồng trứng được chẩn đoán ở phụ nữ đã mãn kinh, bệnh cũng xảy ra ở phụ nữ tiền mãn kinh.
- Nghiên cứu mới đây cho thấy, phụ nữ béo phì dễ có nguy cơ mắc phải chứng bệnh ung thư buồng trứng. Nguy cơ này tăng cao hơn đối với những phụ nữ ngoài độ tuổi trung niên bị béo phì, dư thừa cân nặng. Nguyên nhân gây ung thư buồng trứng ở phụ nữ béo phì chính là do tác động của hàm lượng hoormon trong cơ thể.
- Có 2 cách để xác định bệnh ở giai đoạn sớm là Xét nghiệm CA 125 trong máu và siêu âm buồng chứng
- Chẩn đoán bằng phương pháp siêu âm hoặc chụp cắt lớp. Tuy nhiên, nếu tìm thấy một khối u, siêu âm không phân biệt được khối đó là ung thư hay không. Siêu âm cũng có thể xác định dịch trong khoang bụng (cổ trướng), một dấu hiệu có thể của ung thư buồng trứng. Bởi vì cổ trướng gặp ở nhiều tình trạng khác hơn ung thư buồng trứng, sự hiện diện của nó bắt buộc cần làm nhiều xét nghiệm hơn. Do vậy, kỹ thuật này chỉ được áp dụng cho những người có nguy cơ mắc bệnh cao.
- Các giai đoạn của ung thư buồng trứng: Về cơ bản, bệnh trải qua 4 giai đoạn dưới đây: Giai đoạn 1: ung thư buồng trứng khu trú ở một hoặc hai bên buồng trứng; Giai đoạn 2: ung thư di căn tới những khu vực khác trong khung chậu như tử cung hoặc vòi trứng; Giai đoạn 3: ung thư buồng trứng di căn tới màng bụng hoặc hạch bạch huyết trong ổ bụng. Đây là giai đoạn phổ biến nhất của bệnh được xác định ở thời điểm chẩn đoán; Giai đoạn 4: ung thư đã di căn tới các cơ quan ngoài ổ bụng.
- Phần lớn bệnh nhân mắc ung thư buồng trứng là ung thư biểu mô buồng trứng. Đây là những khối u ác tính hình thành từ các tế bào trên bề mặt của buồng trứng. Một số khối u biểu mô không rõ nguyên do và bệnh trạng, chúng được gọi là khối u tiềm năng ác tính thấp (LMP). Khối u LMP phát triển chậm hơn và ít nguy hiểm hơn so với u ác tính cuả bệnh ung thư buồng trứng.
- Tỷ lệ người sống sót phụ thuộc vào dạng nào của bệnh ung thư buồng trứng. Với ung thư biểu mô ác tính, tỷ lệ sống sót từ 18% đến 89% khi được phát hiện sớm. Với các khối u LMP, tỷ lệ sống sót từ 77%-99% nếu được phát hiện sớm.
- Phẫu thuật ung thư buồng trứng phụ thuộc vào giai đoạn của bệnh. Mục đích để loại bỏ càng nhiều khối u càng tốt, có thể bao gồm cả 1 buồng trứng và các mô lân cận bị nhiễm bệnh ở giai đoạn 1. Trong các giai đoạn sau thậm chí phải cắt bỏ cả 2 buồng trứng, tử cung và các mô xung quanh.
- Hóa trị: Sau phẫu thuật, bệnh nhân sẽ được điều trị hoá chất - những thuốc dùng để tiêu diệt tế bào ung thư còn sót lại. Điều trị cơ bản này gồm 6 đợt cả hoá chất đường tĩnh mạch và vào ổ bụng. Những tác dụng phụ- bao gồm đau bụng, buồn nôn, nôn và nhiễm khuẩn - có thể làm cho nhiều phụ nữ không có khả năng hoàn thành quá trình điều trị đầy đủ hoặc những người khác từ bỏ điều trị.
- Các nhà nghiên cứu đang thử nghiệm nhằm tìm ra các liệu pháp chữa ung thư buồng trứng. Loại thuốc mới trị ung thư có tên là Avastin có thể ngăn chặn sự quá trình hình thành mạch liên quan đến việc hình thành các mạch máu tươi để nuôi khối u. Avastin được phê chuẩn cho các bệnh ung thư khác, nhưng các nhà nghiên cứu cho hay ung thư buồng trứng vẫn đang trong quá trình thử nghiệm liệu pháp này, có thể vẫn gây ra tác dụng phụ nghiêm trọng.
- Mãn kinh sớm sau điều trị. Khi cả 2 buồng trứng bị loại bỏ, đồng nghĩa với việc nó không thể sản xuất estrogen, do đó gây nên thời kỳ mãn kinh sớm dù bệnh nhân còn trẻ tuổi. Sự sụt giảm nồng độ Hormone cũng có thể làm tăng nguy cơ một số bệnh khác, bao gồm cả loãng xương. Phụ nữ sau điều trị cần theo dõi và chăm sóc sức khỏe định kỳ.
- Hoạt động sau điều trị. Phụ nữ sau điều trị phải mất một thời gian dài để lấy lại năng lượng của mình. Mệt mỏi là hiện tượng khá phổ biến. Hãy bắt đầu với những động tác thể dục nhẹ nhàng là một trong những cách hiệu quả nhất để phục hồi năng lượng và tinh thần. Tham khảo ý kiến bác sĩ để xác định các hoạt động phù hợp sau điều trị.
- Có con ít nhất một lần giảm nguy cơ ung thư buồng trứng. Cho con bú trong một năm hoặc lâu hơn cũng làm giảm nguy cơ ung thư buồng trứng.
- Ung thư buồng trứng ít phổ biến hơn ở phụ nữa đã uống thuốc tránh thai. Phụ nữ sử dụng thuốc tránh thai được ít nhất 1 năm có thể giảm được rủi ro mắc bệnh ung thư tử cung, ung thư buồng trứng tới 15 năm và dùng 10 năm sẽ giảm tới 80% ung thư buồng trứng và 60% ung thư tử cung. Lý do hết sức đơn giản, nếu trứng rụng nhiều thì rủi ro phải đối mặt với môi trường mắc bệnh càng lớn, trong khi đó thuốc tránh thai lại có tác dụng làm giảm quá trình này.
- Thắt ống dẫn trứng: Một nghiên cứu lớn (The Nurses"" Health Study) theo dõi hàng nghìn phụ nữ trong 20 năm đã thấy có sự giảm đáng kể nguy cơ ung thư buồng trứng ở phụ nữ đã thắt ống dẫn trứng. Quá trình này cũng cho thấy có sự giảm nguy cơ ung thư buồng trứng trong nhóm phụ nữ có biến đổi về gen BRCA1.
- Phụ nữ có nguy cơ rất cao phát triển ung thư buồng trứng có thể lựa chọn cắt bỏ buồng trứng như một cách phòng bệnh. Những nghiên cứu chỉ ra rằng cắt buồng trứng phòng bệnh giảm nguy cơ ung thư buồng trứng tới 95% và giảm nguy cơ ung thư vú tới 50%, nếu buồng trứng được cắt bỏ trước khi mãn kinh.
- Nghiên cứu cho thấy chế độ ăn uống có liên quan đến việc ngăn ngừa ung thư buồng trứng. Nếu ăn với chế độ ít chất béo trong vòng ít nhất 4 năm phụ nữ ít có khả năng mắc bệnh ung thư buồng trứng. Một số nghiên cứu cũng cho thấy rằng ung thư buồng trứng cũng ít phổ biến hơn ở những phụ nữ ăn nhiều rau và chất xơ.
Theo Cẩm Linh - Kiến thức
Bài viết có hữu ích với bạn?
Có thể bạn quan tâm
Đăng ký nhận bản tin sức khoẻ
Để chủ động bảo vệ bản thân và gia đình
Đăng ký nhận bản tin sức khoẻ để chủ động bảo vệ bản thân và gia đình