Hotline 24/7
08983-08983

Kiểm soát đường huyết trước và sau ăn làm giảm tỷ lệ mắc bệnh tim mạch

Tần suất nhồi máu cơ tim cao hơn 40% ở những bệnh nhân có nồng độ đường huyết sau ăn lớn hơn 10mmol/l so với những bệnh nhân có nồng độ đường huyết sau ăn thấp hơn 8mmol/l. Có sự tương quan chắc chắn giữa mức độ tăng đường huyết sau ăn và nguy cơ tử vong tim mạch.

Thời gian gần đây có nhiều dữ liệu lâm sàng cho thấy đường huyết sau ăn có ý nghĩa quan trọng trong dự báo các biến chứng tim mạch ở người bệnh đái tháo đường và cả người có rối loạn dung nạp glucose.

Bên cạnh đó, đã xuất hiện nhiều thuốc điều trị đái tháo đường mới có tác dụng giảm đường huyết sau ăn.

Nội dung bài viết dưới đây đề cập đến các khía cạnh khác nhau của tăng đường huyết sau ăn, bao gồm sinh lý bệnh, ý nghĩa tiên lượng và lợi ích của việc kiểm soát tăng đường huyết sau ăn ở người bệnh đái tháo đường hoặc có rối loạn dung nạp glucose.

Ảnh minh họa: Internet
Ảnh minh họa: Internet

Đái tháo đường và nguy cơ biến chứng tim mạch

ĐTĐ týp 2 được định nghĩa bởi tình trạng tăng đường huyết mạn tính. ĐTĐ là một nguy cơ chính của các bệnh tim mạch. Nguy cơ tử vong do nhồi máu cơ tim ở bệnh nhân ĐTĐ cao gấp 2-10 lần so với người không  ĐTĐ.

Những yếu tố nguy cơ của bệnh mạch vành có thể điều chỉnh và thay đổi được đó là tăng huyết áp động mạch, rối loạn lipid máu với LDL - C tăng, HDL - C giảm và nồng độ hemoglobine Alc (HbAlc). Với những bệnh ĐTĐ túp 2, những yếu tố nguy cơ này cần phải được kiểm soát hết sức chặt chẽ, nhất là đường huyết và/ hoặc nồng độ HbAlc.

Cần nhấn mạng rằng, tần suất các biến chứng tim mạch do tổn thương vi mạch hay các mạch máu lớn đều liên quan đến sự cân bằng đường huyết và biến chứng tim mạch tăng lên rõ rệt ngay khi tỷ lệ HbAlc vượt quá 6%.

Tỷ lệ nhồi máu cơ tim trong 10 năm giảm tới 15 % nếu nồng độ HbAlc giảm 0,9%. Điều này chứng tỏ kiểm soát đường huyết là một mục tiêu đặc biệt quan trọng đối với bệnh nhân ĐTĐ. Tuy nhiên, theo khuyến cáo của Hội đái tháo đường Hoa kỳ thì không nên sử dụng HbAlc như một chỉ số duy nhất để chứng tỏ sự ổn định về nồng độ đường trong máu bệnh nhân mà cần phải lưu ý đến lượng đường huyết sau ăn của người bệnh.

“Thủ phạm” tăng đường huyết sau ăn

Chỉ chú ý điều chỉnh nồng độ đường huyết khi đói ở bệnh nhân đái tháo đường là chưa đầy đủ. Người ta nhận thấy tỷ lệ mắc bệnh tim mạch ở người ĐTĐ týp 2 tương quan với lượng đường trong máu sau ăn và không liên quan với lượng đường trong máu khi đói.

Điều chỉnh nồng độ đường huyết khi đói hoặc AbAlc hoặc cả hai mà không điều chỉnh đường huyết sau ăn sẽ không làm giảm được tỷ lệ mắc bệnh tim mạch ở người ĐTĐ. Ngược lại, kiểm soát chặt chẽ đường huyết trước và sau ăn cho phép làm giảm có ý nghĩa tỷ lệ mắc bệnh tim mạch.

Cần kiểm soát đường huyết sau ăn

Phần lớn bệnh nhân ĐTĐ tử vong đều do các biến chứng liên quan đến vữa xơ động mạch. Trong số các yếu tố cơ bản, tăng đường huyết mạn tính thể hiện bằng nồng độ HbAlc giữ vị trí hàng đầu. Vì thế, không nên quan niệm chỉ cần khống chế lượng đường trong máu khi đói và/ hoặc HbAlc của bệnh nhân ổn định là đạt mục tiêu điều trị.


Hiện nay, biện pháp hiệu quả phòng ngừa nguy cơ biến chứng tim mạch đối với người bệnh ĐTĐ týp 2 là quan niệm điều trị tích cực: tiếp cận chẩn đoán sớm, điều trị đồng bộ nhằm bình thường hóa và ổn định đường huyết khi đói và đặc biệt là đường huyết sau ăn.

Nguồn tham khảo:
http://vienyhocungdung.vn/moi-lien-he-giua-dai-thao-duong-va-nhoi-mau-co-tim-20151225095607248.htm

Lê Hoa (Tổng hợp)

Đối tác AloBacsi

Đăng ký nhận bản tin sức khoẻ

Để chủ động bảo vệ bản thân và gia đình

Đăng ký nhận bản tin sức khoẻ để chủ động bảo vệ bản thân và gia đình

hoàn toàn MIỄN PHÍ

Khám bệnh online

X