Hotline 24/7
08983-08983

Cách bảo vệ bản thân và gia đình trước nguồn nước bị ô nhiễm?

Trước tình trạng ô nhiễm môi trường, đặc biệt là ô nhiễm môi trường nước, BS Trần Mạnh Hùng về việc người dân nên làm gì để tự bảo vệ bản thân và gia đình một cách hiệu quả.

Thưa bác sĩ, xin bác sĩ cho biết các dạng ô nhiễm của nguồn nước sinh hoạt hiện nay ở Việt nam?

Nguồn nước bị ô nhiễm là nguyên nhân gây nhiều bệnh tật. Tùy theo tính chất mức độ và thành phần ô nhiễm của nguồn nước người ta có thể kể ra các nhóm bệnh như sau:

1. Nguồn nước ô nhiễm vi sinh vật gọi chung là nước nhiễm khuẩn:

Nước nhiễm khuẩn thường hay gặp là vi khuẩn E.Coli, Samolenla, khuẩn tả, thương hàn… gây ra bệnh ỉa chảy thường, bệnh tả, bệnh thương hàn. Nước nhiễm Ký sinh trùng Amibe gây bệnh lỵ amibe, nhiễm ấu trùng giun và ấu trùng sán sẽ gây ra các bệnh về giun (đũa, tóc, móc) và sán.

2. Ô nhiễm các chất hóa học:

a. Ô nhiễm các kim loại nặng: Kim loại nặng gây ra nhiều bệnh lý rối loạn chuyển hóa trầm trọng đối với nhiều cơ quan trong cơ thể (như cơ , xương và cơ quan tạo máu…).

b. Ô nhiễm các hợp chất Clo hữu cơ có nhân thơm: Do đặc điểm Việt nam là nước nông nghiệp nên việc sử dụng các thuốc trừ sâu, diệt côn trùng gây hại mùa màng là phổ biến. Các chất này thấm qua da, niêm mạc đường tiêu hóa vào cơ thể gây tổn thương, gây ức chế cơ quan tạo huyết và ngộ độc thần kinh, có thể là tác nhân gây ung thư và dị tật bẩm sinh (Dioxin).

BSTrần Mạnh Hùng - Nguyên Trưởng ban 10-80 Bộ Y Tế

Một trong những nguyên nhân chính gây ra căn bệnh nguy hiểm đó chính là bị nhiễm các loại kim loại nặng vào cơ thể. Xin bác sĩ có thể chia sẻ thêm về ảnh hưởng của một số kim loại nặng thường thấy trong nguồn nước đối với sức khỏe của người dân như thế nào?

Bệnh đến từ nguồn nước ô nhiễm kim loại nặng, hóa chất độc hại,...thường tiến triển chậm, khó phát hiện và nguy hiểm. Trong phạm vị hạn chế của cuộc phỏng vấn này tôi chỉ nêu những bệnh lý ngộ độc mãn tính gây ra bởi những kim loại nặng tương đối phổ biến từ nguồn nước ở Việt nam như Asen (As), Cadimi (Cd), Chì (Pb), Thủy ngân (Hg), Sắt (Fe).

• Sắt (Fe)

Sắt có trong tế bào và là chất cần thiết để duy trì hoạt động của hệ thống miễn dịch, duy trì các hoạt động cơ bắp và điều chỉnh sự phát triển của tế bào. Tuy nhiên, hấp thụ quá nhiều chất sắt sẽ gây nhiễm độc sắt và làm tổn hại tế bào của các cơ quan quan trọng trong cơ thể như tim, gan, bộ máy tiêu hóa, tổn thương động mạch...

Qua khảo sát thực tế ở Việt Nam đặc biệt khu vực đồng bằng hàm lượng sắt trong nước ở các giếng khoan là rất cao gấp hàng trăm lần hàm lượng cho phép.

Sự nhiễm độc chất sắt không có biểu hiện cấp tính rõ rệt cho đến khi một cơ quan hay mô cơ thể bị tổn thương. Triệu chứng sớm có thể gồm: chán ăn mệt mỏi, yếu sức, đau bụng, đau khớp. Nhiễm độc sắt dần phát triển thành chứng viêm khớp, buồng trứng (hoặc tinh hoàn) phát triển không bình thường.

• Asen (As)

Theo số liệu công bố của Viện hàn lâm khoa học Thụy Sỹ thì mức độ nhiễm Asen trong nước ngầm ở đồng bằng sông Hồng Việt nam có hàm lượng Asen cao vào nhóm nước có mức cao nhất thế giới. Theo điều tra mới nhất thấy hàm lượng Asen trong nước giếng khoan khu vực đồng bằng sông Hồng gấp hàng trăm lần mức cho phép.

Sử dụng nước bị nhiễm Asen quá mức cho phép trong một thời gian dài thì cơ thể bị nhiễm Asen mạn tính. Các ảnh hưởng chính đối với sức khoẻ con người có thể kể ra như sau: gây ung thư biểu mô da, phổi, phế quản, xoang…Y học đã liệt kê Asen có thể gây 19 bệnh lý khác nhau. Nhiễm độc mãn tính biểu hiện ở lông, tóc, móng, răng, xương… có thể gây ung thư. Diễn biến bệnh rất từ từ, âm thầm sau 10 - 15 năm mới thành bệnh như suy thận, ung thư. Khi phát hiện thì đã quá muộn ít khả năng cứu chữa.

• Ca-đi-mi (Cd)

Ca-đi-mi hay gặp ở nhưng nơi khai thác vàng. Bệnh biểu hiện là hay bị viêm mũi tái phát, mất khứu giác, đau xương, dòn xương dễ gẫy, XQ có hình ảnh loãng xương là triệu chứng nổi bật. Giai đoạn nặng có biểu hiện viêm phế quản phổi mãn tính, viêm thận mãn tính.

• Thủy ngân (Hg)

Thủy ngân tính độc phụ thuộc vào dạng hoá học của nó. Trong nước, metyl thủy ngân là dạng độc nhất, nó làm phân liệt nhiễm sắc thể và ngăn cản quá trình phân chia tế bào. Thuỷ ngân có khả năng phản ứng với axit amin chứa lưu huỳnh, các hemoglobin, abumin; có khả năng liên kết màng tế bào, làm thay đổi hàm lượng kali, thay đổi cân bằng axit bazơ của các mô, làm thiếu hụt năng lượng cung cấp cho tế bào thần kinh. Trẻ em bị ngộ độc thuỷ ngân sẽ bị phân liệt, co giật không chủ động.

• Chì (Pb)

Chì là nguyên tố có độc tính cao đối với sức khoẻ con người. Chì gây độc cho hệ thần kinh trung ương, hệ thần kinh ngoại biên, tác động lên hệ enzim có nhóm hoạt động chứa hyđro. Người bị nhiễm độc chì sẽ bị rối loạn bộ phận tạo huyết (tuỷ xương).

Tuỳ theo mức độ nhiễm độc có thể bị đau bụng, đau khớp, viêm thận, cao huyết áp, tai biến mạch não, nhiễm độc nặng có thể gây tử vong. Đặc tính nổi bật là sau khi xâm nhập vào cơ thể, chì ít bị đào thải mà tích tụ theo thời gian rồi mới gây độc.

Vậy trước vấn đề ô nhiễm môi trường, ô nhiễm nguồn nước như hiện nay, người dân cần làm gì để tự bảo vệ bản thân và gia đình trước nguồn nước bị ô nhiễm?

Bệnh tật đến từ nguồn nước rất đa dạng. Nguồn ảnh: internet

Trước tiên người dân cần phải nâng cao ý thức bảo vệ môi trường, bảo vệ nguồn nước xung quanh, vệ sinh thân thể… Ngoài ra, tùy theo từng nguồn nước khác nhau mà chúng ta có những hành động cụ thể.

Đối vối các nguồn nước thông thường cần đun sôi nước trước khi sử dụng. Tuy nhiên, giải pháp đun nước chỉ có thể tiêu diệt các vi khuẩn, vi-rút chứ không loại bỏ được các chất độc hại (kim loại nặng, thuốc trừ sâu…). Lưu ý, không nên sử dụng nước đun sôi để nguội quá lâu, bởi nước để nguội sau 24 tiếng đồng hồ sẽ bị tái nhiễm khuẩn trở lại.

Theo Trí thức trẻ

Đối tác AloBacsi

Đăng ký nhận bản tin sức khoẻ

Để chủ động bảo vệ bản thân và gia đình

Đăng ký nhận bản tin sức khoẻ để chủ động bảo vệ bản thân và gia đình

hoàn toàn MIỄN PHÍ

Khám bệnh online

X